Khai thác nguồn lực tài chính từ tài nguyên thiên nhiên
Thursday, November 17, 2016 6:11 AM GMT+7
Việt Nam có diện tích 331.698 km² với bờ biển dài hơn 3.200km, có nguồn tài nguyên khoáng sản, biển tương đối phong phú về chủng loại… Thời gian qua, Việt Nam đã tập trung khai thác với quy mô tương đối lớn nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Nguồn thu từ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên đóng góp một phần khá lớn trong tổng thu ngân sách nhà nước.

Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên, đất đai với tư cách là một nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội đang gặp khó khăn và đặt ra nhiều thách thức.

Thiếu thông tin

Một trong những khó khăn đối với việc khai thác tài nguyên, đất đai là nhiều loại tài nguyên đã được điều tra, đánh giá nhưng mới chỉ ở mức nắm được thông tin cơ bản, thiếu thông tin quan trọng để có thể lượng hóa được giá trị kinh tế cũng như định hướng cho khai thác.

Hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về tài nguyên chưa được đầy đủ, đồng bộ, thống nhất đảm bảo phục vụ tốt cho quản lý nhà nước nói chung và tổ chức thực hiện khai thác.

Bên cạnh đó, việc lập quy hoạch, kế hoạch khai thác tài nguyên còn nhiều bất cập, thiếu cơ sở khoa học và tính liên kết vùng để đảm bảo khai thác, phân bổ nguồn lực hợp lý; mất cân đối cung – cầu và chưa cân đối với nguồn lực tài chính để thực hiện.

Ngoài ra, việc định giá tài nguyên, quyền khai thác tài nguyên tuy mới được thực hiện đối với đất đai, khoáng sản nhưng vẫn còn nhiều bất cập.

Phương pháp xác định giá dựa trên các yếu tố, thông tin giả định, dự báo, có tính chủ quan, không phù hợp với điều kiện của Việt Nam; thời gian xác định và phê duyệt giá theo thị trường kéo dài dẫn đến chậm trễ trong thông báo, thu nộp nghĩa vụ tài chính.

Việc cấp quyền khai thác, sử dụng đất đai, tài nguyên chủ yếu vẫn theo hình thức chỉ định; việc giao quyền khai thác, sử dụng theo hình thức đấu giá chưa được đẩy mạnh.

Tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên không tuân thủ theo đúng quy hoạch, kế hoạch được phê duyệt dẫn đến tình trạng khai thác quá mức, lãng phí, nguồn tài nguyên có nguy cơ bị cạn kiệt.

Tài nguyên đất đai khai thác, sử dụng kém hiệu quả; đất nông, lâm trường với diện tích khoảng 7.916.300 ha nhưng phần lớn để hoang hóa, sử dụng lãng phí, không hiệu quả trong khi người thực sự cần đất sản xuất thì phải đi thuê lại.

Một số nguồn tài nguyên tái tạo bị suy thoái, cạn kiệt quá mức dẫn đến mất khả năng tái tạo, phục hồi.

Thực tế, người dân ở những nơi khai thác tài nguyên chưa được hưởng lợi một cách xứng đáng, thậm chí chịu nhiều ảnh hưởng bất lợi từ việc khai thác tài nguyên gây ra, chất lượng cuộc sống bị suy giảm do phải hứng chịu tình trạng ô nhiễm môi trường.

Để xử lý vấn đề này, Bộ Tài chính đã có giải pháp về tài chính điều tiết nguồn thu từ khai thác tài nguyên.

Theo đó, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên khoáng sản nộp toàn bộ vào ngân sách địa phương đối với trường hợp thuộc thẩm quyền cấp phép của địa phương; nộp 70% vào ngân sách trung ương, 30% vào ngân sách địa phương đối với trường hợp thuộc thẩm quyền cấp phép của trung ương.

Tuy nhiên, vẫn cần phải có giải pháp căn bản, lâu dài kết hợp giữa khai thác, phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính từ tài nguyên thiên nhiên đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững.

Nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội

Trong bối cảnh thu ngân sách nhà nước từ các nguồn chủ yếu như: thuế, dầu thô… dự báo có nhiều khó khăn; tỷ lệ tiết kiệm dành cho đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân còn hạn chế; sự cạnh tranh vốn giữa các quốc gia ngày càng gay gắt thì việc khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai, tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Trước hết, cần phải thống nhất quan điểm, chuyển cách tiếp cận về đất đai, tài nguyên thiên nhiên phải được ứng xử với tư cách là nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, phòng chống biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường.

Đây là cơ sở để nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính này.

Theo đó, cần phải thực hiện quản lý thống nhất nguồn lực từ đất đai, tài nguyên thiên nhiên trên cơ sở một khung pháp lý thống nhất có tính nguyên tắc từ đánh giá, xác định nguồn lực cho đến công cụ, phương thức, tổ chức khai thác và phân bổ, sử dụng nguồn lực khai thác được cho phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.

Đẩy mạnh công tác điều tra, đánh giá tiềm năng đất đai, tài nguyên thiên nhiên; trong đó cần phải lượng hóa, đánh giá được khía cạnh tài chính, giá trị thực tế có khả năng khai thác.

Trong điều kiện ngân sách nhà nước khó khăn, không đủ bố trí thì việc khuyến khích xã hội hóa, ban hành cơ chế thu hút nguồn tài chính trong và ngoài nước cho công tác điều tra, đánh giá sẽ là giải pháp cơ bản cho vấn đề này.

Cần có cơ chế chia sẻ thông tin, lợi ích cụ thể khi tổ chức, cá nhân tham gia điều tra, đánh giá khi tổ chức thực hiện khai thác tài nguyên.

Công tác lập quy hoạch, kế hoạch khai thác tài nguyên cần phải dự báo, dựa trên thông tin nhu cầu của thị trường nhằm tối đa hóa lợi ích kinh tế thu được khi thực hiện khai thác và kịp thời có sự điều chỉnh phù hợp khi diễn biến thị trường có yếu tố bất lợi làm giảm giá trị tài nguyên khai thác.

Đồng thời, phát huy tối đa lợi thế so sánh giữa các địa phương có tài nguyên gắn với liên kết vùng kinh tế nhằm hạn chế tình trạng khai thác tràn lan, tối ưu hóa việc khai thác nguồn lực tài chính từ tài nguyên cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, của vùng, của đất nước.

Ngoài ra, khi lập quy hoạch, kế hoạch khai thác tài nguyên cần phải đánh giá tác động môi trường một cách đầy đủ, nghiêm túc và xác định rõ chi phí môi trường mà xã hội, người dân nơi có tài nguyên phải gánh chịu khi thực hiện khai thác.

Tài nguyên chỉ được khai thác khi tổng lợi ích xã hội thu được lớn hơn tổng chi phí mà xã hội phải bỏ ra, gánh chịu.

Cùng với đó, cần nghiên cứu hoàn thiện các phương pháp định giá tài nguyên, định giá quyền khai thác tài nguyên phù hợp với thị trường và điều kiện cụ thể của Việt Nam đảm bảo thực hiện thu đúng, thu đủ các khoản nghĩa vụ tài chính có liên quan vào ngân sách nhà nước.

Đẩy mạnh cấp quyền khai thác tài nguyên thông qua hình thức đấu giá, thu hẹp dần cấp quyền theo hình thức chỉ định.

Việc giao quyền khai thác theo hình thức chỉ định chỉ nên áp dụng đối với trường hợp thực sự đặc biệt, ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia.

Từng bước hình thành thị trường về quyền khai thác tài nguyên từ thị trường sơ cấp (cấp phép ban đầu) đến thị trường thứ cấp (chuyển nhượng quyền khai thác giữa các tổ chức, cá nhân).

Thực hiện cải cách thủ tục hành chính, giao cơ quan tài chính thực hiện nhiệm vụ giá tài nguyên, định giá quyền khai thác tài nguyên nhằm đảm bảo cân đối thu – chi ngân sách Nhà nước và rút ngắn thời gian xác định, kịp thời tính, thông báo cho tổ chức, cá nhân thực hiện các nghĩa vụ tài chính.

Nguồn lực tài chính từ đất đai, tài nguyên chỉ được sử dụng cho đầu tư phát triển có mục tiêu (trước hết là cơ sở hạ tầng kinh tế), bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.

Tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thiên nhiên làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái phải nộp cho Nhà nước một khoản tiền tương ứng để khôi phục, hoàn trả môi trường sinh thái những giá trị đã mất tại địa điểm khác để đảm bảo cân bằng sinh thái bền vững./.

____________________________
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
 

Quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối

Quá trình thụ đắc lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa được Việt Nam thực hiện bằng phương thức chiếm hữu thực sự, hoàn toàn hợp pháp. Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh hòa bình vì quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối này.
CUỘC CHIẾN PHÁP LÝ TẠI BIỂN ĐÔNG: Bảo vệ trật tự dựa trên quy tắc tại Biển Đông - Thách thức đầy rẫy và 'mỏ neo' quý giá (Kỳ 1)
Vấn đề xác lập, bảo vệ các quyền hợp pháp của quốc gia trong Biển Đông (phần 3)
Cẩn thận yêu sách chủ quyền lịch sử- bẫy pháp lý Trung Quốc ở Biển Đông (phần 2)
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài cuối: Việt Nam thể hiện vai trò chủ động và trách nhiệm

Tháng 8/2021, trong bài phát biểu tại phiên thảo luận mở cấp cao trực tuyến của Hội đồng Bảo an LHQ với chủ đề “Tăng cường an ninh biển: Một lĩnh vực hợp tác quốc tế”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đưa ra 3 đề xuất nhằm thống nhất hành động toàn cầu để ứng phó kịp thời và hiệu quả với các thách thức an ninh biển, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định trên biển, trên cơ sở tăng cường hợp tác quốc tế, củng cố lòng tin, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 3: Tạo dựng lòng tin để thúc đẩy COC
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 2: Nền móng thiết lập trật tự quốc tế mới trên biển
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 1: Cột mốc quan trọng của luật pháp quốc tế
Sách tranh cho các bé: 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'

Hành trình phiêu lưu kỳ thú của chú cún Phong Ba ở đảo Trường Sa đã thu hút nhiều bạn nhỏ và cả ba mẹ đến theo dõi trong buổi ra mắt quyển sách tranh thiếu nhi 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'.
Từ thác Bản Giốc, ải Nam Quan... đến Hoàng Sa, Trường Sa
Giải B Sách Quốc gia: Sách quý về quần đảo Trường Sa
"Bức họa Trường Sa"
 

 

Dự án thông tin về Biển Đông của Vietnam Bussines Consulting
Email: vnsea@mail.ru
Ghi rõ nguồn www.vnsea.net khi phát hành lại thông tin từ website này
Информационный портал VBC об Южно-Китайском море.
Copyright © 2012 Vnsea. Все права защищены.