Bài 1: Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế
Saturday, January 14, 2012 1:20 PM GMT+7
Trong tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mỗi nước đều đưa ra những lí lẽ và bằng cớ chủ quyền khác nhau. Sự thật lịch sử như thế nào và đâu là căn bản pháp lý của sự đòi hỏi của mỗi nước? Ban biên tập vnsea.net trân trọng loạt bài viết của các phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam thực hiện nhằm cung cấp thêm thông tin nhằm làm sáng tỏ chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo thiêng liêng trên Biển Đông của Tổ quốc.

Các tài liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam không chỉ có sự hiểu biết lâu đời đến hai quần đảo này mà còn chiếm hữu thực sự chúng ít nhất từ thế kỷ XVIII, là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền trên các quần đảo này. Một trong những tài liệu xưa nhất để chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa là Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư có từ thể kỷ XV (1490) dưới thời vua Lê Thánh Tông.

Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam chỉ rõ: “Các hải đảo của Việt Nam như Trường Sa, Hoàng Sa thì có bản đồ từ năm 1940. Sau này, nhà Nguyễn (1838) vẽ bản đồ trong Đại Nam nhất thống toàn đồ cũng chỉ rõ, ở bên cạnh, gần miền Trung là quần đảo Hoàng Sa, phí dưới ghi là Vạn Lý Trường Sa.”

Chứng cứ kế tiếp xác lập chủ quyền Việt Nam được tìm thấy trong bộ sách Phủ Biên tạp lục do Lê Quý Đôn soạn năm 1776. Tác phẩm của nhà bách khoa với chức vụ Hiệp trấn hai tỉnh đã mô tả rõ các quần đảo và cho thấy thời đó triều đình Việt Nam đã tổ chức công việc khai thác và quản trị các đảo. Lê Quý Đôn viết:

“Tôi từng tra khảo sổ biên của cai đội Thuyền Đức hầu ngày trước như sau:

-         Năm Nhâm Ngọ (1702), đội Hoàng Sa đã nhặt được 30 thoi bạc.

-         Năm Giáp Thân (1704), nhặt được 5.100 cân thiếc.

-         Năm Ất Dậu (1705), 126 nén bạc.

-        Từ năm Kỉ Sửu (1709) đến năm Quí Tị (1713), trong vòng 5 năm, đội Hoàng Sa đã nhặt được nhiều cân đồi mồi và hải sâm. Có năm chỉ nhặt được vài cái chén sành và hai khẩu súng đồng.”

Lê Quý Đôn còn ghi lại những sự kiện lịch sử xảy ra trước đó, như vụ chiến thuyền của các Chúa Nguyễn Phúc Lan đánh nhau với các chiến thuyền Hà Lan. Điều này cho thấy, thời ấy, nước ta đã có một đội hải quân tinh nhuệ và rất chú ý tới việc kiểm soát trên biển.

Ngoài Hồng Đức bản đồ và Phủ biên tạp lục, nhiều bản đồ, tập địa đồ hay sách địa lý Việt Nam chỉ rõ các quần đảo như một bộ phận của nước ta, cụ thể là: Giáp Ngọ Bình Nam Đồ, 1774; Đại Nam Nhất Thống toàn đồ, 1838; Đại Nam Nhất Thống chí, 1882…

Sự quản lý thật sự các quần đảo cũng xuất hiện trong nhiều tài liệu khác của Việt Nam như Đại Nam thực lục tiền biên, thời kỳ 1600-1775 và Đại Nam thực lục chính biên; Đại Nam nhất thống chí,1865 – 1882, Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ, 1843-1851,vv…

Một số tài liệu này mang dấu ấn của nhà vua hoặc có những lời phê bằng mực son, bút tích của nhà vua. Từ đó, có thể khẳng định rằng, các hoàng đế Việt Nam đã luôn theo đuổi việc tổ chức một đội khai thác kinh tế biển và thăm dò các quần đảo. Các biện pháp này thuộc một chính sách quốc gia chú trọng tới các lợi ích biển.

TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới của Chính phủ cho biết: “Trong kho lưu trữ ở Huế, chúng ta đã tìm được những bút phê của nhà vua trong việc thành lập đội Hoàng Sa, rồi cử đội này ra Hoàng Sa và Trường Sa, với thời gian cụ thể và cả các quyết định phong chức cho các đội trưởng để chỉ huy ra Hoàng Sa và Trường Sa như Phạm Quang Ảnh, Phạm Hữu Nhật,vv… mà hiện nay các tên tuổi đó được ghi nhận ở một số đảo trên quần đảo Hoàng Sa của chúng ta như đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hòa. Chúng ta cũng tìm được các gia phả của các dòng họ ở xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn các văn bản của nhà vua trong việc cử các đinh tráng xung vào đội Hoàng Sa.

Đây chính là bằng chứng pháp lý để nói rằng, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.

Giữa năm 1771 và năm 1802, lịch sử nước ta được đánh dấu bằng sự đối đầu của các triều đại phong kiến. Khi nhà Nguyễn được khôi phục lại, vua Gia Long đã tiến hành thống kê tất cả đất đai của đất nước. Các đội thủy binh đóng một vai trò quan trọng trong việc thống kê các quần đảo. Đại Nam thực lục chính biên kể lại, năm 1815 và 1816, vua cử Phạm Quang Ảnh chỉ huy đơn vị hải quân Hoàng Sa ra các đảo để xem xét đo đạc thủy trình và vẽ bản đồ.

Vua Minh Mạng, người kế nghiệp ông, vào năm 1833, đã ra chỉ thị cho Bộ Công phái người tới dựng miếu, lập bia, trồng nhiều cây cối ở Hoàng Sa. Chỉ thị viết: “Ngày sau, cây cối to lớn, xanh tốt, người dễ nhận biết, có thể tránh được nhiều mắc cạn.”

Năm 1836, vua Minh Mạng tiếp tục kế hoạch của người tiền nhiệm thực hiện làm địa bạ toàn quốc. Trong sắc chỉ về Hoàng Sa và Trường Sa có đoạn viết: “Phải ghi chép mọi việc, mọi chi tiết và tường trình cho trẫm rõ. Khi thuyền đến một nơi nào, một hòn đảo hay một bãi cát, thuyền trưởng phải đo kĩ chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều sâu, chiều rộng và cả chu vi của hòn đảo hoặc của bãi cát, độ sâu của nước vùng ở xung quanh, dò tìm các bãi đá ngầm, xem đó có nguy hiểm cho tàu bè hay không, khảo sát đất đai, đo đạc và vẽ bản đồ.”

Cùng năm này, vua Minh Mạng ra lệnh cho Đô đốc Thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa một đội thuyền ra các đảo cắm các cọc lớn để đánh dấu những nơi đã kiểm tra. Trên mỗi cọc có ghi dòng chữ: “Năm Minh Mạng thập thất, thừa hành Hoàng thượng, thủy quân đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật đã ra đây, tại đảo Hoàng Sa để đo đạc địa hình và cắm cọc này để làm dấu tích.”

Năm 1837, Thượng thư Bộ Lại làm một bản tường trình nhà vua về các khoản chi tiêu của đội Hoàng Sa. Năm 1838, quan tuần phủ tỉnh Quảng Hà đề nghị vua cho bãi các thuế khóa đánh vào các tàu của đội Hoàng Sa và được vua chấp thuận. Cùng năm đó, Thượng thư Bộ Công làm một bản báo cáo lên nhà vua về các hoạt động của đội. Các đảo Hoàng Sa đã được ghi trong đó. Năm 1867, năm Tự Đức thứ 20, đối với các thủy binh đã tử vong trong quá trình ra các quần đảo đều được nhà vua tôn vinh là anh hùng,vv…

Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu khẳng định, trong luật quốc tế, đó là những bằng chứng của chủ quyền: “Các triều đình phong kiến Việt Nam có giấy chứng thực chủ quyền từ thế kỷ XVI, đặc biệt là trong thế kỷ XVIII. Họ đã tổ chức quản lý các quần đảo này thông qua các đội tàu biển. Theo mùa, các đội tàu này đến các đảo để khai thác tài nguyên thiên nhiên và của cải từ xác các con tàu đắm trôi dạt vào. Họ còn dùng nhiều biện pháp như trồng cây để bảo đảm cho các vùng đó bớt nguy hiểm hơn cho các tàu bè qua lại. Người ta đã tìm thấy bằng chứng trong chiếu chỉ của vua Minh Mạng về việc này.

Trong luật quốc tế, đó là những bằng chứng của chủ quyền.”

Rõ ràng, Việt Nam với tư cách là một quốc gia trước thời thuộc địa đã phát triển các hành vi cai quản ở đó vào thời điểm không có một quốc gia nào có mối quan tâm tới chúng như một quốc gia có chủ quyền./.

Lê Phúc-Lê Bình-Thùy Vân-Thu Lan

____________________________
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
 

Quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối

Quá trình thụ đắc lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa được Việt Nam thực hiện bằng phương thức chiếm hữu thực sự, hoàn toàn hợp pháp. Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh hòa bình vì quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối này.
CUỘC CHIẾN PHÁP LÝ TẠI BIỂN ĐÔNG: Bảo vệ trật tự dựa trên quy tắc tại Biển Đông - Thách thức đầy rẫy và 'mỏ neo' quý giá (Kỳ 1)
Vấn đề xác lập, bảo vệ các quyền hợp pháp của quốc gia trong Biển Đông (phần 3)
Cẩn thận yêu sách chủ quyền lịch sử- bẫy pháp lý Trung Quốc ở Biển Đông (phần 2)
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài cuối: Việt Nam thể hiện vai trò chủ động và trách nhiệm

Tháng 8/2021, trong bài phát biểu tại phiên thảo luận mở cấp cao trực tuyến của Hội đồng Bảo an LHQ với chủ đề “Tăng cường an ninh biển: Một lĩnh vực hợp tác quốc tế”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đưa ra 3 đề xuất nhằm thống nhất hành động toàn cầu để ứng phó kịp thời và hiệu quả với các thách thức an ninh biển, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định trên biển, trên cơ sở tăng cường hợp tác quốc tế, củng cố lòng tin, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 3: Tạo dựng lòng tin để thúc đẩy COC
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 2: Nền móng thiết lập trật tự quốc tế mới trên biển
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 1: Cột mốc quan trọng của luật pháp quốc tế
Sách tranh cho các bé: 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'

Hành trình phiêu lưu kỳ thú của chú cún Phong Ba ở đảo Trường Sa đã thu hút nhiều bạn nhỏ và cả ba mẹ đến theo dõi trong buổi ra mắt quyển sách tranh thiếu nhi 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'.
Từ thác Bản Giốc, ải Nam Quan... đến Hoàng Sa, Trường Sa
Giải B Sách Quốc gia: Sách quý về quần đảo Trường Sa
"Bức họa Trường Sa"
 

 

Dự án thông tin về Biển Đông của Vietnam Bussines Consulting
Email: vnsea@mail.ru
Ghi rõ nguồn www.vnsea.net khi phát hành lại thông tin từ website này
Информационный портал VBC об Южно-Китайском море.
Copyright © 2012 Vnsea. Все права защищены.