Người Việt chinh phục đại dương - Kì 2
01 Tháng Hai 2012 9:04 SA GMT+7
Khi đi tìm lại kỹ thuật đóng những chiếc thuyền buồm một thuở lừng danh của hải đội Hoàng Sa, tôi may mắn gặp được nhiều bậc cao niên vẫn nắm vững kỹ thuật đóng loại thuyền này. Thậm chí có những bác thợ cả còn tự hào kể đời mình đã từng đóng được ít nhất vài chục chiếc mãi đến những năm 1950 của thế kỷ 20...

Mê tre, sự sáng tạo Việt độc đáo

Lý Sơn, mùa biển này hay nổi dông gió, nhưng các ngư dân quả cảm vẫn đang ra khơi. Họ là thế hệ trẻ trên hòn đảo quê hương hải đội Hoàng Sa đã chuyển sang sử dụng tàu máy, còn trước đó cha ông họ vẫn cưỡi trên đầu sóng ngọn gió bằng loại ghe câu chạy buồm mà tổ tiên họ từ hàng trăm năm trước đã sử dụng. Ông Võ Hiển Đạt kể khi được tỉnh Quảng Ngãi giao phục dựng chiếc ghe câu một thời, ông hào hứng nhận ngay mà không chút băn khoăn. Những người ở tuổi 80 như ông trên đảo đều biết rõ, thậm chí nhiều người từng tự tay đóng hoặc đi biển trên những chiếc ghe đó. “Không sử dụng nhiều gỗ như bây giờ vì phần thân dưới ghe là mê tre, nhưng người thợ đóng loại ghe đó phải biết dựng nên khung sườn gỗ chắc chắn để kết hợp với độ dẻo dai của tre mà chống chịu bão gió trên biển ...” - ông Đạt kể phải mất khoảng 150 ngày công mới hoàn thành chiếc ghe lịch sử này dù chỉ là mô hình thu nhỏ. Tất cả chi tiết đều làm bằng tay, chi tiết càng nhỏ càng đòi hỏi khéo tay hơn.

Nhờ chỉ dẫn của các ngư dân lớn tuổi, tôi đi tìm người thợ cả Nguyễn Tấn Trà, 76 tuổi, ở xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi đã từng đóng cả trăm chiếc ghe. 60 năm tuổi nghề, ông là hậu duệ của dòng họ có ít nhất sáu đời đã đóng ghe câu. Tiếp nối nghề này mãi đến năm 1968 ông mới chuyển qua đóng tàu máy. Những ngày ở bến sông Nghĩa Phú, tôi đã mải mê nghe ông Trà ôn lại ký ức gắn liền với loại ghe câu từng ngang dọc Hoàng Sa: “Đời nay có thể nói chiếc ghe câu xưa lạc hậu. Nhưng với những thợ cả đời đóng tàu như chúng tôi thì chiếc ghe đó là cả công trình nghệ thuật, một sự hun đúc kinh nghiệm đi biển bao đời mới có được. Nó như chính con người Việt nhỏ nhắn nhưng không dễ khuất phục, mềm mại nhưng dẻo dai, bền bỉ...”.

Thợ cả Nguyễn Tấn Trà


Ông Trà tâm sự chỉ riêng tấm mê tre chịu nước dưới ghe cũng thể hiện kinh nghiệm độc đáo của người Việt. Thợ làm mê phải có kinh nghiệm lựa tre già, lóng tốt, không thối gốc, cụt ngọn, sau đó mới chọn đoạn dài đẹp nhất giữa thân. Việc chẻ tre thành từng thanh nan cũng đòi hỏi rất khéo tay. Nan tre phải đạt độ dày và lớn đều nhau để mắt đan liên kết chặt chẽ. Nan tre đan mê ghe không cần ngâm nước trước, nhưng phải phơi đủ vài nắng tươi. Thợ đan phải có kinh nghiệm mới được đan mê ghe để đều tay, xít chặt. Mắt mê cũng không không đan song song hay thẳng đứng với mặt nước mà theo chiều xéo góc để có độ dẻo dai, chống chịu được sóng gió. Mê tre sau khi đan xong được quét phân trâu bò để trét kẽ nan, rồi lại tiếp tục phủ lớp dầu rái (cây rái trên rừng). Theo ông Trà, tấm mê tre có vẻ mỏng manh so với gỗ nhưng dẻo dai, khó gãy. Khi gặp sóng gió có thể lún vào rồi lại căng ra bình thường. Mê tre cũng rẻ tiền, dễ thay sau mỗi hải trình xa xôi, nếu được quét dầu rái cẩn thận có thể bền hơn ba năm.

Ưu điểm lớn nhất của mê tre chính là sự nhẹ nhàng giúp giảm tải ghe. Thường mê tre chỉ nặng bằng 1/5 so với gỗ. Nhờ đó mà chiếc ghe câu hay ghe bầu vận tải của người Việt xưa đã đạt tốc độ rất cao.

Vững chãi trong bão tố

Tự hào về những ghe câu mình từng đóng, ông Trà kể ngoài nghệ thuật dùng mê tre làm bụng ghe, phần khung sườn và các bộ phận khác cũng được hun đúc từ kinh nghiệm bao đời người Việt đi biển. Gỗ quý xưa không thiếu, nhưng việc chọn đúng loại gỗ phù hợp để đóng ghe đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc kỹ thuật hàng hải. Chiếc ghe tốt phải cứng cáp chịu đựng được bão tố, nhưng cũng không được quá nặng nề, chậm chạp. Là một trong những người thợ từng đóng những chiếc ghe câu cuối cùng ở Quảng Ngãi, ông Trà kể: “Tổ tiên đã truyền cho tôi kinh nghiệm chọn loại gỗ cứng nhưng dẻo dai như sao, chò, kiền kiền để đóng phần ghe dưới nước, đặc biệt là xỏ lái trước mũi và “con lươn” chịu lực chính dọc theo đáy ghe”. Chỉ cách đây già nửa thế kỷ, gần như toàn bộ công việc đóng tàu vẫn được làm bằng tay. Tùy cỡ ghe họ có thể đóng mất 200-300 ngày công, đòi hỏi sự khéo tay và kinh nghiệm của thợ.


Thời ông Trà, thợ cả giàu kinh nghiệm chỉ nhìn lượng gỗ có thể tính chính xác mực nước ghe mình đóng. Ghe câu thường gồm khoang đốc phía sau, khoang lòng và khoang mũi. Loại ghe câu nhỏ của đội Hoàng Sa mà về sau vẫn được con cháu họ là ngư dân Lý Sơn sử dụng thì dùng hai hoặc ba cột buồm. Trong đó cột chính (dân đi biển quen gọi là cột lòng) bằng các loại gỗ kiền, lim cao khoảng 9m, cột buồm mũi cao khoảng 7m và cột buồm lái phía sau. Ghe câu thường chỉ dài 11-16m, rộng 2,5-3m và sâu 1,8-2,5m. Thủy thủ đoàn 8-10 người, phù hợp với các tài liệu cổ ghi chép suất đội đi Hoàng Sa được tìm thấy ở Lý Sơn. Từ đảo này họ đi ba ngày ba đêm thì đến Hoàng Sa. Tốc độ chính nhờ sức gió thổi buồm, nhưng ghe vẫn thường được trang bị thêm bốn chèo ngang và một chèo lái.


Để sinh tồn sáu tháng lênh đênh trên biển Hoàng Sa, ghe được trang bị các khạp gỗ đựng gạo, nước, củi để tránh bị vỡ khi gặp sóng gió. Thủy thủ đoàn cũng không thể thiếu khạp dầu rái dự phòng cho trường hợp phải trét sửa ghe dọc đường. Đặc biệt, họ mang theo cả giáo mác cán gỗ để phòng thân. Ngoài gạo, thức ăn thêm của đội Hoàng Sa là cá mú bắt được trên biển và các loại trứng chim, rùa có rất nhiều trên các đảo.


Không rõ hải quân triều đình xưa có dùng nhiều thuyền hải vận lớn để theo đội Hoàng Sa là dân binh Lý Sơn hay không. Nhưng chắc chắn chiếc ghe câu nhỏ là phương tiện chủ yếu của hải đội Hoàng Sa đã được ghi chép trong sử sách và ký ức con cháu nhiều đời truyền lưu.

Thuyền trưởng Mỹ ngưỡng mộ thuyền bè VN

Những ngày ở Huế, tôi tìm lại dấu vết các nhà hàng hải quốc tế đã từng là chứng nhân trên vùng biển thuộc chủ quyền người Việt từ cách đây hàng thế kỷ. Trong khi hiện vật còn lưu lại về họ quá hiếm hoi thì các bộ sử sách lại ghi chép khá tỉ mỉ.

Trong đó, đặc biệt là các hồi ký, du ký, bài báo do chính họ viết về những hải trình thám hiểm, giao thương đầy thú vị với người Việt. Và một trong số đó là hồi ức của viên trung úy thuyền trưởng người Mỹ John White trên chiếc tàu Franklin.

Đến vùng biển người Việt

Trong thư phòng bạc màu thời gian, các nhà nghiên cứu Huế Hồ Tấn Phan, Nguyễn Hữu Châu Phan đã không tiếc thời gian lục tìm cho tôi xem tài liệu ghi chép của những nhà hàng hải quốc tế về con đường và kỹ thuật chinh phục biển của người Việt xưa.

Điều rất thú vị là không chỉ người Pháp đến từ các chiến thuyền nặng ân oán cả trăm năm với đất nước này, mà nhiều cường quốc hàng hải như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Mỹ đều đã ngược xuôi trên vùng biển Đông của người Việt từ rất sớm.

Quê hương ở tận Massachussetts, trung úy thuyền trưởng John White đã khởi hành từ đầu tháng giêng năm 1819 trên chiếc tàu Franklin qua nhiều vùng biển, hải cảng, kể cả những cuộc chiến đấu với hải tặc Malacca và mãi đến ngày 7-6 mới tới Cap Saint Jacques (Vũng Tàu).

Trong hồi ký “Chuyến đi đến Nam Hà” được phát hành năm 1824 ở London, vị thuyền trưởng có cả máu thám hiểm lẫn thương buôn kể rằng: “11 giờ ngày 7 (tháng 6 năm 1819 - PV), chúng tôi đã thấy được Cap Saint Jacques ở phía bắc đông bắc.

Mũi này là nơi khởi đầu của một dãy núi chạy dọc theo bờ biển về hướng bắc... Đây chính là vùng đất cao đầu tiên mà người ta nhận thấy được khi đi từ phương Nam lên và nó tạo thành một điểm mốc tuyệt vời cho lối vào con sông Donnai (Đồng Nai - PV) nằm ở phía bắc mũi đó.

Chúng tôi đi theo hướng mũi đất ấy... vào được trong một cái vịnh nhỏ hình bán nguyệt có phong cảnh rất đẹp ở dưới chân núi. Xa xa bên trong cái vịnh ấy có làng Vũng Tàu, làng này đã cho vùng biển này tên gọi là Vũng Tàu...”.

John White đã kể tỉ mỉ mình neo tàu ở vùng nước sâu năm sải và chỉ cách làng Vũng Tàu một hải lý. Ông khen đây là nơi đậu tàu an toàn đến tuyệt vời. Mục đích của thuyền trưởng người Mỹ này là vào sâu Sài Gòn qua cửa Cần Giờ để tìm cơ hội buôn bán.

Nhưng ông ta đã mất rất nhiều thời gian để thực hiện thủ tục nhập cảnh phức tạp, kể cả phải ngược ra Huế xin phép nhà vua. Tuy nhiên, chính thời gian phải neo chờ và thực hiện hải trình dọc bờ biển ra kinh thành Huế, John White đã được tận mắt chứng kiến và khen ngợi kỹ thuật đóng tàu cùng khả năng đi biển của người Việt.

Những con tàu bản xứ đáng ngưỡng mộ

Hồi ký John White đã miêu tả chân thực khi chiếc Franklin “chạm trán” với thuyền Việt: “Những thuyền bè bản xứ với sự hoạt động lẹ làng của chúng đã làm chúng tôi tràn trề lòng ngưỡng mộ. Chúng đã chở được 5-500 tấn, nhưng những chiếc chở được 15-30 tấn đã thống trị số tàu này. Chúng rất dài, hai đầu thon mảnh và cong lên một cách mạnh dạn ra khỏi mặt nước... Điều này sẽ khiến người ta nghĩ rằng những chiếc thuyền ấy chỉ lấy gió một cách khó khăn. Trường hợp này lại không phải như vậy...”.

Miêu tả những chiếc thuyền bản xứ ở vùng biển Vũng Tàu - Cần Giờ, ban đầu viên thuyền trưởng đến từ cường quốc hàng hải Mỹ đã chỉ ra một loạt những cấu tạo như là kỹ thuật đóng tàu riêng của người Việt có vẻ bất bình thường. Nhưng sau đó, chính ông là người đã chứng thực và khen ngợi khả năng vận hành tuyệt vời của chúng.

Đặc biệt, John White cũng không tiếc lời ngợi khen những chiếc thuyền có cấu tạo độc đáo bằng mê tre rất thông dụng là ghe bầu đi buôn hay giống như hải thuyền của các hải đội Hoàng Sa sử dụng: “Chúng tôi rất kinh ngạc thấy rằng có một số chiếc trọng tải quá 50 tấn mà có đáy thuyền làm bằng tấm phên tre... được đan sít sao và gồm có hai phần, mỗi phần tạo thành một bên đáy thuyền nằm dưới cái đai mạn thuyền.

Những bộ phận của loại thuyền này dài hơn, mập hơn những bộ phận của loại thuyền khác. Người ta có thể tháo rời ra và ráp chúng lại một cách dễ dàng mà không có gì nguy hiểm. Mặt khác, vì mỗi năm chúng chỉ đi có một chuyến theo đợt gió mùa thuận lợi, mỗi lần dỡ hàng xong thì chúng được tháo rời ra và đem cất giữ để tránh thời tiết xấu.

Đáy loại thuyền này cũng như đáy các loại thuyền khác đều có phết loại nhựa dính dầu và vôi, hỗn hợp rất đều, tạo thành một hợp chất dính rất bền, tuyệt đối không thấm nước và chống lại sự tấn công của các loài sâu hà một cách hữu hiệu...”.

Khi mô tả khả năng lướt sóng của những chiếc thuyền mê tre độc đáo này, John White viết: “Những chiếc thuyền ấy rất bền, khi buồm no gió chúng được đẩy nhanh và đi biển rất tốt. Thuyền có hai hoặc ba cánh buồm được cắt rất sắc sảo và được làm rất thích đáng...

Những cánh buồm ấy đều làm bằng đệm lát, những cánh buồm của thuyền buôn đều có dây thu buồm xỉn màu đen. Theo nguyên tắc chung ở phương Đông, những mỏ neo đều làm bằng gỗ và chỉ có một chân neo. Những dây néo buồm và dây chão phần lớn làm bằng cây mây và thừng chão bằng xơ dừa, những dây dừa bện rất tốt...”.

Một loại thương thuyền linh hoạt do John White vẽ lại - Ảnh tư liệu

Ngược ra miền Trung để gặp gỡ những người thợ đóng thuyền cao niên ở vùng Quảng Ngãi, Quảng Nam, tôi đã đưa hồi ký của John White cho họ đọc để kiểm chứng tính xác thực trong các miêu tả của ông.

Thật bất ngờ, gần 200 năm sau, những điều mắt thấy, tay chạm kỹ thuật thuyền bè người Việt của viên thuyền trưởng Mỹ vẫn được người thợ bản xứ truyền đời duy trì.

Người thợ cả Nguyễn Tấn Trà, 76 tuổi, ở làng nổi danh với nghề đóng tàu biển Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi, nhận xét: “Gần như toàn bộ các miêu tả của thuyền trưởng người Mỹ về kỹ thuật đóng tàu này đều chính xác. Không chỉ loại thuyền thân cong thuận lướt sóng hay tấm mê tre dễ nhìn thấy, mà ngay cả những cánh buồm đệm lát, dây chão bằng xơ dừa, mỏ neo bằng gỗ lim cũng được ông ta phát hiện chính xác”.

Không giấu vẻ tự hào, ông Trà kể thêm mãi đến những năm giữa thế kỷ 20, thợ làng ông vẫn còn đóng những chiếc ghe đi biển bằng kỹ thuật này. Điều đó chứng tỏ John White đã rất quan tâm và biết khá chính xác kỹ thuật đóng tàu của người Việt. Hồi ký của ông cũng kể đã đem vô số vật lạ của quốc gia này về nhà bảo tàng hàng hải của East - India Martine Society. (Còn tiếp)

(Theo Tuoitre)

 

____________________________
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
 

Quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối

Quá trình thụ đắc lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa được Việt Nam thực hiện bằng phương thức chiếm hữu thực sự, hoàn toàn hợp pháp. Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh hòa bình vì quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối này.
CUỘC CHIẾN PHÁP LÝ TẠI BIỂN ĐÔNG: Bảo vệ trật tự dựa trên quy tắc tại Biển Đông - Thách thức đầy rẫy và 'mỏ neo' quý giá (Kỳ 1)
Vấn đề xác lập, bảo vệ các quyền hợp pháp của quốc gia trong Biển Đông (phần 3)
Cẩn thận yêu sách chủ quyền lịch sử- bẫy pháp lý Trung Quốc ở Biển Đông (phần 2)
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài cuối: Việt Nam thể hiện vai trò chủ động và trách nhiệm

Tháng 8/2021, trong bài phát biểu tại phiên thảo luận mở cấp cao trực tuyến của Hội đồng Bảo an LHQ với chủ đề “Tăng cường an ninh biển: Một lĩnh vực hợp tác quốc tế”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đưa ra 3 đề xuất nhằm thống nhất hành động toàn cầu để ứng phó kịp thời và hiệu quả với các thách thức an ninh biển, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định trên biển, trên cơ sở tăng cường hợp tác quốc tế, củng cố lòng tin, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 3: Tạo dựng lòng tin để thúc đẩy COC
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 2: Nền móng thiết lập trật tự quốc tế mới trên biển
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 1: Cột mốc quan trọng của luật pháp quốc tế
Sách tranh cho các bé: 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'

Hành trình phiêu lưu kỳ thú của chú cún Phong Ba ở đảo Trường Sa đã thu hút nhiều bạn nhỏ và cả ba mẹ đến theo dõi trong buổi ra mắt quyển sách tranh thiếu nhi 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'.
Từ thác Bản Giốc, ải Nam Quan... đến Hoàng Sa, Trường Sa
Giải B Sách Quốc gia: Sách quý về quần đảo Trường Sa
"Bức họa Trường Sa"
 

 

Dự án thông tin về Biển Đông của Vietnam Bussines Consulting
Email: vnsea@mail.ru
Ghi rõ nguồn www.vnsea.net khi phát hành lại thông tin từ website này
Информационный портал VBC об Южно-Китайском море.
Copyright © 2012 Vnsea. Все права защищены.