Người Việt chinh phục đại dương - Kì 3
03 Tháng Hai 2012 4:48 SA GMT+7
Thủy quân triều Nguyễn “Chắc chắn rằng người An Nam phải là những kỹ thuật gia về thủy quân và công trình của họ có một vẻ đẹp khéo léo. Tôi bị ấn tượng rất mạnh bởi ngành này ...”. Từ đầu thế kỷ 19, thuyền trưởng người Mỹ John White đã thốt lên khi thăm các xưởng đóng tàu hải quân nhà Nguyễn.

Những xưởng đóng tàu chiến

Từ biển Vũng Tàu, tôi vào Sài Gòn theo hải trình qua cửa biển Cần Giờ mà tàu Franklin xưa của John White đã đi. Hai trăm năm trôi qua, bến bờ hoang sơ mà viên thuyền trưởng người Mỹ từng mô tả đã đổi thay nhiều, nhưng cặp mắt hàng hải của ông vẫn nhìn đến thời nay khi nó vẫn là thủy lộ huyết mạch nối thế giới bên ngoài với cảng Sài Gòn.

Trong hồi ký Chuyến đi đến “Nam Hà”, John White kể ông đến Sài Gòn vào tháng 10-1819 và rất thích thú các xưởng đóng tàu: “Về phía Đông Bắc, trên bờ sông sâu, người ta thấy một công trường xây dựng và một xưởng đóng tàu thủy quân. Tại xưởng này, thời loạn lạc, người ta đã đóng những chiếc thuyền chiến to lớn có nhiều buồm ...

Chỗ đóng tàu này đã tạo danh dự cho người An Nam hơn bất cứ cái gì hiện có trong xứ sở họ. Nó có thể cạnh tranh với những xưởng đóng tàu tốt nhất của châu Âu ... Xưởng đầy ắp vật liệu có phẩm chất tuyệt vời để đóng nhiều hộ tống hạm. Các thứ gỗ để đóng tàu và những lớp vỏ lòng tàu đều là những thứ đẹp nhất mà tôi chưa bao giờ được thấy ...”.

Bị thu hút bởi xưởng đóng tàu thủy quân, John White liệt kê: “Có khoảng 150 chiếc thuyền chiến được đóng rất tốt nằm dưới các nhà chái... Có một vài chiếc được trang bị đến 16 khẩu đại bác bắn đạn nặng ba cân Anh. Nhiều chiếc khác được trang bị từ bốn đến sáu canông bắn đạn nặng từ 4-12 cân Anh. Tất cả đều bằng đồng và đúc rất đẹp.

Ngoài ra còn có độ 40 thuyền chiến đang neo đậu trên sông, chuẩn bị tham gia một chuyến tuần thám bất ngờ mà quan Tổng trấn sẽ thực hiện ở miền thượng lưu con sông, ngay lúc ông từ Huế trở về...

Chắc chắn người An Nam phải là những kỹ thuật gia về hải quân và công trình của họ có một vẻ đẹp khéo léo. Tôi bị ấn tượng rất mạnh bởi ngành này của nền kinh tế chính trị của họ, nên tôi đã đến thăm viếng xưởng đóng tàu rất nhiều lần ...”.

Thời điểm năm 1819, những gì John White quan sát là kết quả chiến lược phát triển hải quân hùng mạnh của Nguyễn Ánh để bảo vệ bờ cõi, chủ quyền biển đất nước.

Đến nước Việt sớm hơn John White, Nam tước John Barrow, người Anh đi biển lừng danh đã sáng lập Hội Địa lý hoàng gia, tường thuật tỉ mỉ nỗ lực của Nguyễn Ánh xây dựng các hạm đội hùng mạnh.

Trong du ký A voyage to Cochinchina in the years 1792 - 1793 (Một chuyến du hành tới Nam Hà trong các năm 1792 - 1793), John Barrow kể rằng: “Ông (Nguyễn Ánh - PV) đặc biệt lưu ý về những gì liên quan đến kỹ thuật hàng hải và kỹ nghệ đóng tàu...

Để nắm vững kiến thức về thực hành cũng như lý thuyết của kỹ thuật đóng tàu châu Âu, ông đã mua một chiếc tàu Bồ Đào Nha với mục đích chỉ để tháo ra từng bộ phận, từng tấm ván một, rồi tự tay lắp vào một tấm ván mới có hình dáng và kích thước tương tự cái cũ mà ông đã tháo ra, cho tới khi mọi thanh sàn tàu, xà ngang tàu, thanh gỗ khớp nối được thay thế bằng những cái mới, và như vậy con tàu hoàn toàn đổi mới...

Nhà vua là người quản đốc các cảng biển và kho quân dụng, thợ cả trong các xưởng đóng tàu, kỹ sư trưởng trong mọi công trình, không có việc gì dự định thực hiện mà không có lời khuyên bảo và chỉ dẫn của ông.

Trong việc đóng tàu, không có cái đinh nào được đóng mà không có sự tham vấn ban đầu của ông, không có một khẩu đại bác nào được đưa lên vị trí mà không có lệnh của ông”.

Phải khẳng định John Barrow viết rất cẩn trọng, tham khảo, đối chiếu nhiều nguồn tư liệu khác như từ chính ghi chép của Barysi, cố vấn đắc lực cho Nguyễn Ánh. Nhờ đó, John Barrow chân thực kể về Nguyễn Ánh rằng: “Ông đi đến các xưởng quân dụng hải quân, xem xét những công việc được thực hiện khi ông vắng mặt, cho thuyền chèo quanh các hải cảng, kiểm tra những thuyền chiến.

Ông đặc biệt chú ý đến các sở quân cụ, các lò đúc được dựng nên trong các sở binh khí, các cỡ súng đại bác đã được đúc ra theo đủ loại kích cỡ ... Ông dùng bữa ngay ở xưởng đóng tàu, gồm một ít cơm ăn với cá khô. Khi đó vua lại trở dậy, hội kiến với các sĩ quan quân đội và hải quân”.

Hơn hai vạn thủy quân

Chiến lược phát triển hải quân của Nguyễn Ánh đã được John Barrow kể lại kết quả từ chính những gì ông thấy và tư liệu xác thực từ viên thuyền trưởng Barysi, từng là trợ thủ hải quân của Nguyễn Ánh: trong năm 1800, lực lượng hải quân của Nguyễn Ánh đã đến 26.800 người.

Trong đó chỉ riêng thợ xưởng hải quân đã có 8.000 người, 8.000 lính trên 100 chiến thuyền chèo tay, 1.200 lính trên chiến thuyền đóng kiểu châu Âu, 1.600 lính phục vụ trên các thuyền mành và 8.000 lính thường trực ở cảng.

Thuyền trưởng Mỹ John White bổ sung số liệu hải quân nhà Nguyễn năm ông ta có mặt ở nước này: “Ở Huế, nhà vua cũng có một đội thuyền chiến và vào năm 1819, 200 chiến thuyền khác có trang bị 14 khẩu thần công đang được đóng. Trong số 200 chiến thuyền này, có khoảng 50 chiếc được trang bị buồm chão bằng buồm dọc và có một phần được đóng theo kiểu châu Âu”.

 
Một chiến thuyền nhỏ của thủy quân nhà Nguyễn - Ảnh tư liệu

Đến triều Minh Mạng, bộ sử Đại Nam hội điển sự lệ ghi rõ số lượng tàu thuyền lúc ấy đã phát triển thêm rất nhiều như năm 1828, chỉ riêng ở kinh sư đã có 379 chiếc thuyền định ngạch, còn các tỉnh thành lớn như Gia Định có 105 chiếc, Nam Định 85 chiếc, Nghệ An 40 chiếc, Quảng Nam 40 chiếc, Quảng Ngãi 25 chiếc ...

Những nhà hàng hải nước ngoài cho rằng sự phát triển hải quân nhà Nguyễn đã có bước ngoặt lớn trong thời Nguyễn Ánh. Ngoài tầm nhìn xa trông rộng của vị vua này còn có sự trợ giúp của một số người Pháp.

Nhưng họ cũng thừa nhận thời tổ tiên Nguyễn Ánh đã có hải quân hùng mạnh lập nhiều chiến thắng hiển hách. Trong đó lẫy lừng nhất là trận cửa Eo, Thuận An, năm 1644, chúa Nguyễn Phúc Lan với chiến thuyền nhỏ đánh bại đội tàu chiến Hà Lan.

Dù dày dạn kinh nghiệm hải chiến với tàu lớn, pháo hạng nặng, nhưng tàu Hà Lan đã bị nhà Nguyễn vô hiệu hóa bằng chiến thuật áp sát thần tốc của chiến thuyền nhỏ. Một chiến hạm Hà Lan bị đắm tại chỗ, một chiếc cùng đường phải cho nổ kho thuốc súng hủy tàu và chiếc còn lại quay đầu chạy.

Ngoài hải chiến cửa Eo, hải quân nhà Nguyễn cũng nhiều lần gây khiếp vía cho các tàu cướp phá đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan.

Người Việt xuất ngoại chinh phục đại dương

Lặng nhìn sông Hương xuôi chảy, nhà nghiên cứu Huế Nguyễn Hữu Châu Phan trầm tư: “Chỉ với dân binh đảo Lý Sơn trên thuyền buồm nhỏ mà bao lớp người Việt đã dũng cảm vượt đại dương ra tiếp nối xác lập chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, chứng tỏ người Việt giỏi đi biển và đã đi được rất xa”.

Người Việt hướng biển

Điều thú vị là trong quá trình sưu tầm tài liệu người nước ngoài về hoạt động biển và bảo vệ chủ quyền biển của người Việt, tôi đã tìm được nghiên cứu của GS Vu Hướng Đông, giám đốc Sở Nghiên cứu VN, Đại học Trịnh Châu, Trung Quốc. Trong tài liệu “Ý thức về biển của vua Minh Mạng” in ở kỷ yếu Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn tại hội thảo năm 2008 ở Thanh Hóa, tác giả Vu Hướng Đông đã rất đề cao tầm nhìn đại dương của triều Nguyễn.

“Sau vua Gia Long, vua Minh Mạng cũng tiếp tục đề xướng và ủng hộ sự nghiệp hàng hải ở hải ngoại, hầu như năm nào ông cũng cử đội thuyền triều đình hàng hải đến các nước Đông Nam Á, hải đảo ở vùng “Hạ Châu”. Ông từng cử người đến Minh Ca (Can - cốt - đa) ở miền đông Ấn Độ vùng “tiểu tây dương”, hình thành hiện tượng công cán hải ngoại quy mô lớn liên tục. Theo ghi chép của Đại Nam thực lục, từ năm Minh Mạng thứ ba (1822) đến năm Minh Mạng thứ 21 (1840), vua Minh Mạng ít nhất đã cử 30 đợt các quan văn võ, đi tổng cộng khoảng 60 con tàu/lượt bọc đồng lớn nhỏ như các tàu “Phấn Bằng”, “Thụy Long”, “Định Dương”, “Bình Ba”... đến vùng Hạ Châu và tiểu tây dương”. Chỉ một nghiên cứu ngắn, Vu Hướng Đông khẳng định người Việt đã vươn đến được các đại dương xa xôi hơn cả quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Đặc biệt, Vu Hướng Đông cũng cho rằng chương trình đưa người ra hải ngoại của vua Minh Mạng không nhằm mục đích thương buôn lấy lợi mà để mở mang hiểu biết, đặc biệt là học kỹ thuật hàng hải và hải chiến. Sâu xa hơn, triều Nguyễn quan tâm đến tương lai của đất nước trong thế sự nhiều lân quốc như Nhật, Trung Quốc đang biến động mạnh, phải chịu tác động nặng nề của các cường quốc hàng hải phương Tây. Minh Mạng ý thức được bất cập của hải quân triều Nguyễn nên yêu cầu đại thần ra nước ngoài mua tàu hơi nước và chiến pháp của hải quân Anh, Mỹ, với nhận xét sâu sắc: “Trong các nước phương Tây chỉ có Xích Mao và Ma Li Căn giỏi thủy chiến, tàu của họ hoặc thuận chiều gió hoặc ngược chiều gió đều rất nhanh nhẹn ... thật đáng để học tập”.

Nhà nghiên cứu người Trung Quốc này cũng đề cao vua Minh Mạng bằng chính trích đoạn trong sử Việt khi nhà vua hạ dụ cho quan Võ khố học tập chế tạo máy hơi nước: “Người làm vua phải học tập cái tốt của thiên hạ, loại xe này do người nước ngoài chế tạo ra, nó tinh xảo tiện việc sử dụng, học tập nó không sao cả. Nếu nói nó không đáng để học tập thì là thiển cận”.

Sự thật lịch sử

Tầm nhìn hướng biển của triều Nguyễn cũng được các nhà nghiên cứu người Việt khẳng định. GS Nguyễn Thế Anh, sử gia có nhiều công trình sâu sắc về nền kinh tế - xã hội triều Nguyễn, đã nghiên cứu chương trình đưa người đi công vụ nước ngoài thế kỷ 19. Ông cho rằng triều Nguyễn, đặc biệt là Gia Long và Minh Mạng, không hề bịt mắt che tai trước thời sự thế giới mà trái lại rất quan tâm vì tin rằng sẽ ảnh hưởng tới quốc gia. Và mục đích chương trình cử người xuất ngoại là thăm dò dự định của các cường quốc châu Âu để sửa đổi chính sách ngoại giao.

Theo nghiên cứu của GS Nguyễn Thế Anh, chỉ giai đoạn 1835-1939, nhà Nguyễn đã cử ít nhất 21 chuyến thuyền vượt đại dương. Những người đã thực hiện nhiều chuyến đi như Nguyễn Tri Phương trong các năm 1836, 1837, 1838 trên các thuyền Thụy Long, Phấn Bằng; Đào Trí Phú đi năm 1838, 1839, 1840 trên thuyền Thanh Loan, Thụy Long; Lê Bá Tú đi năm 1837, 1838, 1839 trên các thuyền Phấn Bằng, An Dương, Linh Phượng... Ngoài ra, nhiều nhân vật từng xuất ngoại đến Singapore, Malaysia, Indonesia cũng được nhắc đến như Trần Hưng Hòa, Nguyễn Lương Huy, Vũ Văn Giải, Trần Danh Bưu, Nguyễn Văn Tố... Sau thăm dò thế sự, họ còn giao thương đường, ngà voi, thoi đồng và mua về vũ khí, kẽm, chì, diêm, vải vóc. Trong đó có cả việc trọng đại là mua tàu hơi nước về cho triều đình sử dụng và nghiên cứu đóng mới.

Đặc biệt, bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của triều Nguyễn còn ghi rõ chế độ triều đình thưởng, phạt để khuyến khích người đi biển. Minh Mạng năm thứ 19 phái hai chiếc thuyền Thụy Long, Phấn Bằng đi việc công ở Hạ Châu. Hành trình đi về đều an toàn. “Vậy phó vệ úy Phan Văn Mẫn ngồi cai quản thuyền Phấn Bằng được thưởng một lần kỷ lục... Từ nay phàm thuyền phái đi ngoại quốc, đi về đều được yên ổn, nếu là đường bể tương đối xa như địa phương tiểu tây dương thì viên ngồi cai quản được thưởng ba lần kỷ lục, như các địa phương Quảng Đông, Lữ Tống, Giang Lưu Ba (Indonesia) thì viên ngồi cai quản được thưởng hai lần kỷ lục, các địa phương tương đối gần như Tân Gia Ba (Singapore), đảo Tân Lang thì viên ngồi cai quản thưởng một lần kỷ lục để tỏ rõ có sự phân biệt việc khen thưởng, để khiến biết có sự khuyến khích”. Cũng năm này, Minh Mạng đã cảm thương thủy thủ đoàn thuyền Linh Phượng đi Giang Lưu Ba khó nhọc, xa ngày nên thưởng cho cả người bị mất trên đường đi, người bị bệnh và người về được.

Nhiều nhân vật vang danh hậu thế như Nguyễn Tri Phương, Bùi Viện, Cao Bá Quát, Phan Huy Chú đã ghi chép, làm thơ để lại nỗi niềm và điều tai nghe mắt thấy ở hải ngoại. Có lẽ là người Việt gặp tổng thống Mỹ sớm nhất từ thế kỷ 19, Bùi Viện đã thốt những lời thơ chí hùng: “... Cương thường thân gánh vác/sóng gió bước chơi vơi/phúc chúa trời yên ổn/dòng thu thẳng neo bơi”. Cảm khái nghĩa khí Bùi Viện, vua Tự Đức đã ban rằng: “Trẫm với ngươi tuy chưa có ơn nghĩa gì cả mà đã coi việc nước như việc nhà, không quản xa xôi, lo lắng. Quỷ thần tất cũng biết vậy”. Một quan chức không lớn như Bùi Viện mà được nhà vua cảm khái, tiễn đưa ra nước ngoài như vậy đã cho thấy tầm nhìn hướng biển của một triều đại cùng bao dự cảm, khát vọng cho dân tộc.

Chân dung vua Minh Mạng trong sách của John Crawfurd

Từ ý thức biển của vua Minh Mạng, Vu Hướng Đông nhận xét: “21 năm trị vì của vua Minh Mạng cũng có thể được coi là đỉnh cao của nền hàng hải thuyền buồm và công cuộc xây dựng hải quân thời cổ đại VN. Ông ra sức đẩy mạnh sự nghiệp hàng hải của Chính phủ VN, khuyến khích đóng các loại tàu thuyền bền chắc, xây dựng thủy quân vững mạnh, hết sức coi trọng đến nền an ninh cõi biển và phòng thủ biển. Ông đã ban bố các quy chế như “Tuần dương chương trình”, “Tuần dương quy thức” và “Tuần dương xử phận lệ”... nhằm mục đích chống cướp biển, trạm dương và giữ gìn an ninh cho các loại tàu thuyền hoạt động”.

N.L. (Theo tuoitre)

____________________________
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
 

Quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối

Quá trình thụ đắc lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa được Việt Nam thực hiện bằng phương thức chiếm hữu thực sự, hoàn toàn hợp pháp. Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh hòa bình vì quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối này.
CUỘC CHIẾN PHÁP LÝ TẠI BIỂN ĐÔNG: Bảo vệ trật tự dựa trên quy tắc tại Biển Đông - Thách thức đầy rẫy và 'mỏ neo' quý giá (Kỳ 1)
Vấn đề xác lập, bảo vệ các quyền hợp pháp của quốc gia trong Biển Đông (phần 3)
Cẩn thận yêu sách chủ quyền lịch sử- bẫy pháp lý Trung Quốc ở Biển Đông (phần 2)
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài cuối: Việt Nam thể hiện vai trò chủ động và trách nhiệm

Tháng 8/2021, trong bài phát biểu tại phiên thảo luận mở cấp cao trực tuyến của Hội đồng Bảo an LHQ với chủ đề “Tăng cường an ninh biển: Một lĩnh vực hợp tác quốc tế”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đưa ra 3 đề xuất nhằm thống nhất hành động toàn cầu để ứng phó kịp thời và hiệu quả với các thách thức an ninh biển, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định trên biển, trên cơ sở tăng cường hợp tác quốc tế, củng cố lòng tin, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 3: Tạo dựng lòng tin để thúc đẩy COC
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 2: Nền móng thiết lập trật tự quốc tế mới trên biển
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 1: Cột mốc quan trọng của luật pháp quốc tế
Sách tranh cho các bé: 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'

Hành trình phiêu lưu kỳ thú của chú cún Phong Ba ở đảo Trường Sa đã thu hút nhiều bạn nhỏ và cả ba mẹ đến theo dõi trong buổi ra mắt quyển sách tranh thiếu nhi 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'.
Từ thác Bản Giốc, ải Nam Quan... đến Hoàng Sa, Trường Sa
Giải B Sách Quốc gia: Sách quý về quần đảo Trường Sa
"Bức họa Trường Sa"
 

 

Dự án thông tin về Biển Đông của Vietnam Bussines Consulting
Email: vnsea@mail.ru
Ghi rõ nguồn www.vnsea.net khi phát hành lại thông tin từ website này
Информационный портал VBC об Южно-Китайском море.
Copyright © 2012 Vnsea. Все права защищены.