CÁC BIỆN PHÁP DUY TRÌ HÒA BÌNH, ỔN ĐỊNH VÀ TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC VỀ BIỂN ĐÔNG
08 Tháng Bảy 2011 9:38 SA GMT+7
Hiện tại, trong khu vực Biển Đông đang tồn tại hai loại tranh chấp chủ yếu: 1. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. 2. Tranh chấp ranh giới các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các nước có bờ biển đối diện hoặc liền kề.
Tình trạng tranh chấp trong Biển Đông:
 
Hiện tại, trong khu vực Biển Đông đang tồn tại hai loại tranh chấp chủ yếu:
 
1. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
 
2. Tranh chấp ranh giới các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các nước có bờ biển đối diện hoặc liền kề.
 
Hai loại tranh chấp này được hình thành vào các thời điểm khác nhau, có nội dung , mức độ khác nhau và diễn ra trên những phạm vi địa lý có liên quan đến các bên tranh chấp cũng rất khác nhau:
 
Loại tranh chấp chủ quyền lãnh thổ:
 
a - Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa: là tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Thời điểm xẩy ra tranh chấp là vào đầu thế kỷ XX (năm 1909), mở đầu là sự kiện Đô đốc Lý Chuẩn đem ba phái thuyền ra thăm chớp nhoáng một vài đảo và đổ bộ lên đảo Phú Lâm, rồi rút lui ngay. Bởi lẽ, trên quần đảo này đang nằm dưới sự kiểm soát, quản lý của quân đội Pháp đóng trong những căn cứ đồn trú khá vững chắc, cùng với những cơ sở phục vụ cho công tác quản lý của chính quyền Pháp, với tư cách đại diện cho Nhà nước Việt Nam, tiếp tục thực hiện chủ quyền của Việt Nam như đã từng có ít nhất là từ thế kỷ XVII đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân Nhật, Chính quyền Trung Hoa dân quốc đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm phía Đông Hoàng Sa và sau đó phải rút lui vào thời điểm Quốc dân Đảng bị đuổi khỏi Hoa lục chạy ra Đài Loan. Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội thực dân Pháp phải rút khỏi Đông Dương, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ và Chính quyền Nam Việt Nam chưa tiếp quản Hoàng Sa, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đưa quân ra tái chiếm nhóm phía Đông Hoàng Sa và đến năm 1974, lợi dụng tình hình quân đội của chính quyền Sài Gòn đang trên đà suy sụp, quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, và với thoả thuận ngầm của Mỹ để cho Trung Quốc tự do hành động (laisser faire), CHND Trung Hoa đưa quân ra đánh chiếm nhóm phía Tây Hoàng Sa đang do quân đội Sài Gòn đóng giữ. Mọi hành động nói trên của phía Trung Quốc đều bị phía Việt Nam chống trả hoặc chính thức lên tiếng phản đối với tư cách là Nhà nước có chủ quyền đối với Hoàng Sa: “Nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền của mình; việc chiếm hữu và thực hiện chủ quyền này là thật sự, liên tục và hoà bình, phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế”.(1) Từ đó, Trung Quốc đã ráo riết củng cố, xây dựng quần đảo Hoàng Sa trở thành căn cứ quân sự quan trọng, làm bàn đạp tiến xuống phía Nam.
 
b - Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa:
 
(i) Tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc từ những năm 30 của thế kỷ trước bắt đầu bằng sự kiện Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao Pháp năm 1932 khẳng định “các đảo Nam Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc xa nhất về phía Nam”. Năm 1946, Trung Hoa Dân quốc, lấy danh nghĩa làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật đã đưa tàu Thái Bình ra chiếm đóng đảo Ba Bình (Itu Aba). Năm 1956, Đài Loan lại đưa quân ra tái chiếm Ba Bình. Năm 1988, CHND Trung Hoa đưa quân ra chiếm 6 vị trí là những bãi cạn ở phía Tây Trường Sa, ra sức củng cố nâng cấp các vị trí này thành các điểm đóng quân, và năm 1995, lại chiếm đóng thêm 1 vị trí nữa, đá Vành Khăn, nằm về phía Đông Trường Sa. Cho đến nay, Trung Quốc đã chiếm đóng 7 vị trí trên quần đảo Trường Sa. Như vậy, tổng số đảo, đá mà phía Trung Quốc (kể cả Đài Loan) chiếm đóng lên đến 8 vị trí.
 
(ii) Tranh chấp giữa Việt Nam với Phi-líp-pin bắt đầu bằng sự kiện Tổng thống Quirino tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa phải thuộc về Phi-líp-pin vì nó ở gần Phi-líp-pin. Từ năm 1971 đến 1973, Phi-líp-pin đưa quân chiếm đóng 5 đảo; năm 1977-1978 chiếm thêm 2 đảo nữa. Năm 1979, Phi-líp-pin công bố Sắc lệnh của Tổng thống Marcos ký ngày 11-6-1979 coi toàn bộ quần đảo Trường Sa, trừ đảo Trường Sa, là lãnh thổ của Phi-líp-pin và đặt tên là Kalayaan. Năm 1980, Phi-líp-pin mở rộng chiếm đóng thêm một đảo nữa ở phía Nam, đó là đảo Công Đo.
 
(iii) Tranh chấp giữa Việt Nam và Ma-lai-xi-a mở đầu bằng sự kiện Sứ quán Ma-lai-xi-a tại Sài Gòn ngày 3 tháng 2 năm 1971 gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao chính quyền Sài gòn hỏi rằng quần đảo Trường Sa hiện thuộc nước Cộng hòa Morac Songhrati Meads có thuộc Cộng hòa Việt Nam hay Cộng hòa Việt Nam có yêu sách đối với quần đảo đó không? Ngày 20 tháng 4 năm 1971 Chính quyền Sài Gòn trả lời rằng quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, mọi xâm phạm đến chủ quyền Việt Nam ở quần đảo này đều bị coi là vi phạm pháp luật quốc tế. Tháng 12 năm 1979, Chính phủ Ma-lai-xi-a cho xuất bản bản đồ gộp vào lãnh thổ Ma-lai-xi-a một khu vực phía Nam Trường Sa, bao gồm cả đảo An Bang và Thuyền Chài nơi Việt Nam đang đóng giữ. Năm 1983-1984, Ma-lai-xi-a cho quân đóng 3 bãi ngầm ở phía Nam Trường Sa là Hoa Lau, Kỳ Vân, Kiệu Ngựa. Năm 1988, họ đóng quân cờ 2 bãi ngầm Én Đất và Thám Hiểm, đưa số vị trí mà Ma-lai-xi-a chiếm đóng lên đến 5 điểm.
 
Quan điểm pháp lý cũng như các chứng cứ của các bên tranh chấp đưa ra để bảo vệ cho lập trường của mình cũng rất khác nhau và có thể tóm tắt như sau:
 
- Quyền   thụ   đắc   lãnh   thổ   dựa   trên   nguyên   tắc   phát   hiện   đầu tiên (Trung Quốc)
 
- Quyền   thụ   đắc   lãnh   thổ   dựa   trên   nguyên   tắc   chiếm   hữu   thật   sự (Việt Nam).
 
- Quyền thụ đắc lãnh thổ dựa trên nguyên tắc kế cận lãnh thổ,…
 
c- Tranh chấp ranh giới biển, thềm lục địa:
 
Đây là loại tranh chấp được hình thành trong xu hướng thay đổi có tính chất cách mạng về địa-chính trị, địa – kinh tế trên phạm vi thế giới với việc khoảng 36% diện tích biển và đại dương thế giới đã được đặt dưới chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển kể từ khi Công ước của LHQ về Luật biển đã được thông qua năm 1982. Kết quả là, trên thế giới còn khoảng 416 tranh chấp liên quan đến ranh giới biển cần phải được giải quyết, trong đó khu vực Đông Nam Châu Á còn khoảng 15 tranh chấp. Việc đàm phán xác định ranh giới biển và thềm lục địa giữa Việt Nam và các nước xung quanh Biển Đông đã, đang và sẽ tiến hành giải quyết cho các khu vực sau đây:
 
a.   Ranh giới vùng đặc quyền kinh tế (ĐQKT) và thềm lục địa (TLĐ) ở          trong Vịnh Bắc Bộ và khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ có liên quan giữa          Việt Nam và Trung Quốc, nơi mà bờ biển đối diện nhau và cách nhau dưới 400 hải lý.
 
b. Ranh giới vùng ĐQKT và TLĐ ở phía Nam Biển Đông có liên quan          giữa Việt Nam, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Bru-nây, In-đô-nê-xi-a.
 
c.   Ranh giới các vùng biển, TLĐ có liên quan giữa Việt Nam, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, Cam-pu-chia.
 
d. Ranh giới biển của phạm vi biển thuộc quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa giữa các bên tranh chấp có liên quan.
 
Cho đến thời điểm hiện nay, các bên liên quan đã giải quyết:
 
a.   Ranh giới biển trong Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, ký          ngày 25 tháng 12 năm 2000.
 
b. Ranh giới TLĐ giữa Việt Nam và In-đô-nê-xi-a tại vùng TLĐ phía Nam Biển Đông, ký ngày 23 tháng 6 năm 2003.
 
c.   Ranh giới Vùng ĐQKT và TLĐ trong Vịnh Thái Lan có liên quan giữa Việt Nam và Thái Lan, ký ngày 9 tháng 8 năm 1997.
 
 d. Thoả thuận về giải pháp tạm thời cùng khai thác vùng chồng lấn (join-development) được ký kết giữa Việt Nam và Ma-lai-xi-a ngày 5 tháng 6 năm 1992.
 
 e.   Hiệp định về “Vùng nước lịch sử” giữa Việt Nam và Cam-pu-chia, ký         ngày 7 tháng 7 năm 1982.
 
Như vậy, việc xác định ranh giới các vùng biển và TLĐ chồng lấn giữa các nước có liên quan còn lại là rất lớn và khó khăn, phức tạp. Tình trạng khó khăn, phức tạp đó có thể vì những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
 
(i) Các nước ven Biển Đông đã đưa ra các yêu sách về các vùng biển và TLĐ trong Biển Đông rất khác nhau, hoặc là do hoàn toàn không tuân thủ các quy định có liên quan của Công ước của LHQ về Luật Biển, hoặc là đã giải thích và vận dụng các tiêu chuẩn của Công ước của LHQ về Luật Biển một cách chủ quan, không chuẩn xác, thậm chí hoàn toàn sai lệch, sao cho có lợi nhất khi tiến hành đàm phán với các bên hữu quan để phân định ranh giới biển và TLĐ.
 
(ii) Giữa Biển Đông lại có 2 quần đảo, vừa đang ở trong tình trạng tranh chấp phức tạp về chủ quyền lãnh thổ, vừa tồn tại những quan niệm khác nhau về hiệu lực đối với việc xác định phạm vi các vùng biển và TLĐ của chúng.
 
Giải pháp cho những tranh chấp Biển Đông:
 
Muốn chấm dứt tình trạng tranh chấp hết sức phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ gây nên căng thẳng, xung đột, làm nguy hại đến hòa bình, an ninh, sự ổn định của khu vực và thế giới, theo tôi các bên có liên quan phải:
 
Thứ nhất: Thống nhất được cách giải thích và vận dụng các tiêu chuẩn để xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các quốc gia ven biển ở xung quanh Biển Đông như: việc xác định hệ thống đường cơ sở ven bờ lục địa, ven bờ các hải đảo xa bờ, hệ thống đường cơ sở quốc gia quần đảo, các quần đảo không phải là quốc gia quần đảo; thống nhất các tiêu chuẩn để tính hiệu lực của các hải đảo trong việc hoạch định ranh giới biển, thềm lục địa…
 
Thứ hai: thống nhất được phạm vi biển, thềm lục địa chồng lấn được hình thành từ các yêu sách của các quốc gia ven biển theo đúng các tiêu chuẩn của Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982.
 
Thứ ba: thống nhất các tiêu chuẩn xác định phạm vi biển và TLĐ của 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với tư cách là những quần đảo xa bờ, không phải là quốc gia quần đảo, các đảo ở đây có diện tích rất nhỏ, không thích hợp với đời sống con người, không có đời sống kinh tế riêng…
 
Thứ tư: thống nhất nguyên tắc pháp lý và thực tiễn quốc tế áp dụng cho việc xác định quyền thụ đắc lãnh thổ quốc gia đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với 2 quần đảo này.
 
Thứ năm: nếu yêu sách nào đưa ra không phù hợp với những tiêu chuẩn đã được thống nhất thì phải bị coi là vô giá trị, Quốc gia nào đã đưa ra yêu sách đó phải từ bỏ nó với một tinh thần thực sự cầu thị, tôn trọng luật pháp và thực tiễn quốc tế, vì lợi ích, hoà bình, ổn định và phát triển của khu vực và quốc tế.
 
Trong thực tiễn quốc tế, có không ít những tấm gương về trách nhiệm và tinh thần cầu thị của một số quốc gia khi tham gia đàm phán xác định ranh giới biển. Tôi xin phép được nêu lên ở đây một thực tế sinh động và gần gũi:
 
Trong đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ, mặc dù đã từng chính thức nêu quan điểm rằng trong Vịnh Bắc Bộ đã có đường biên giới theo Công ước hoạch định biên giới được ký kết giữa Pháp và Nhà Thanh (Trung Quốc) năm 1887, đó là kinh tuyến 108003’13” Đông,(2) nhưng Việt Nam đã chủ động từ bỏ yêu sách này vì sau khi sưu tầm, nghiên cứu thêm hồ sơ, tài liệu thì đã xác định rằng đường biên giới đó chỉ là để phân chia chủ quyền các đảo ven bờ. Vì vậy, Việt Nam đã đồng ý cùng với Trung Quốc đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ bằng con đường thỏa thuận thông qua thương lượng hữu nghị, trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế, có tính đến các hoàn cảnh hữu quan trong vịnh nhằm đi đến một giải pháp công bằng mà cả hai bên đều có thể chấp nhận được. Kết quả là ngày 25 tháng 12 năm 2000 tại Bắc Kinh, hai nước đã chính thức ký Hiệp định Phân định Lãnh hải, vùng ĐQKT và TLĐ, kết thúc một quá trình đàm phán kéo dài 27 năm với 3 vòng đàm phán chính: năm 1974, 1977-19787 và từ 1992-2000. Trong Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc ngày 25 tháng 12 năm 2000 đã nhấn mạnh: việc hai nước ký kết “Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa” và “Hiệp định phân định lãnh hải,   vùng   đặc   quyền   về   kinh   tế   và   thềm   lục   địa   trong   Vịnh   Bắc   Bộ   giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa, “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước CHND Trung Hoa” có ý nghĩa lịch sử sâu rộng, sẽ thúc đẩy hơn nữa quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai nước phát triển mạnh hơn nữa trong thế kỷ XXI”. Có thể nói rằng, cùng với việc đã và đang giải quyết các tranh chấp trên biển khác với các nước láng giềng có liên quan, việc ký kết Hiệp định này là bước tiến mới trong việc xây dựng môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, góp phần tích cực vào việc củng cố hoà bình ổn định ở khu vực và thế giới. Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ cũng có những đóng góp trong thực tiễn áp dụng và phát triển luật quốc tế về
phân định biển giữa các nước có bờ biển vừa đối diện vừa tiếp giáp, vai trò của các đảo, các bãi nửa nổi nửa chìm, vấn đề cửa sông biên giới với các địa hình đáy sông, đáy biển, vấn đề cửa vịnh, vấn đề eo biển quốc tế, giá trị của bản đồ trong Hiệp ước biên giới…
 
Phương châm có thể áp dụng trong bối cảnh hiện nay
 
Chúng ta tin rằng các bên liên quan trong Biển Đông sẽ tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được trong thời gian qua để, trước hết là tự mình từ bỏ các yêu sách đơn phương về biên giới biển thiếu căn cứ pháp lý trong Biển Đông; chẳng hạn như biên giới biển 9 đoạn bao lấy gần 80% diện tích Biển Đông mà phía Trung Quốc đã sử dụng dựa theo tờ bản đồ do một công dân Trung Hoa dân Quốc tự ý vẽ ra từ năm 1946; tiếp đến, cùng nhau tìm được một mẫu số chung, làm cơ sở pháp lý cho mọi diễn đàn giải quyết các tranh chấp có thể có trong thời gian tới theo các nội dung mà tôi đã đề cập ở trên. Thực hiện được những nội dung nói trên là điều không dễ dàng, thiết nghĩ cần có biện pháp và lộ trình thực hiện một cách thiết thực.
 
Trước hết, phương châm có thể áp dụng trong bối cảnh hiện nay là: “Dễ giải quyết trước; Khó giải quyết sau”. Vì vậy, theo tôi trước mắt chúng ta hãy tạm gác vấn đề giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa; tạm thời giữ nguyên hiện trạng của các bên tranh chấp trên hai quần đảo này; mỗi đảo có người ở cho phép có phạm vi biển rộng 12 hải lý bao quanh, các bãi cạn nửa nổi nửa chìm có phạm vi biển 3 hải lý bao quanh để thực hiện quản lý, bảo vệ theo quy chế của nội thủy, lãnh hải của bên đang chiếm đóng. Ngoài pham vi biển của các đảo, bãi cạn đó, các bên sẽ thống nhất ranh giới biển và thềm lục địa theo đúng tiêu chuẩn của Công ước luật biển 1982 để xác định các khu vực chồng lấn nhằm tiến tới xác định ranh giới biển, TLĐ. Trong khi các bên chưa thống nhất được ranh giới cuối cùng, có thể tính đến một giải pháp tạm thời “hợp tác khai thác chung” (joint development) trong các vùng chồng lấn đó.
 
Để thực hiện lộ trình nói trên, cần thiết phải có cơ chế tổ chức thích hợp:
 
Ngoài các diễn đàn đàm phán song phương, đa phương chính thức và không chính thức do các bên liên quan thỏa thuận lập ra, có lẽ nên tính đến vai trò   của   các   tổ   chức   khu   vực   và   quốc   tế,   như:   Liên   Hợp   Quốc,   ASEAN, ASEAN+1, ASEAN+2… khi cần thiết có thể phải đứng ra lập các Uỷ ban, Tiểu ban Ad-hoc… để trực tiếp tổ chức nghiên cứu, đề xuất các giải pháp mà các bên tranh chấp có thể chấp nhận hoặc tham khảo, vận dụng được… Các tổ chức này có quy chế hoạt động rõ ràng, có trách nhiệm và quyền hạn nhất định… do các bên tranh chấp và các tổ chức khu vực và quốc tế quy định.
 
Thưa quí vị, hôm nay tại diễn đàn này, với tư cách là nhà nghiên cứu về Luật Biển, tôi xin nêu các nội dung nói trên với hy vọng rằng quí vị có mặt tại Hội thảo này, cũng như các đồng nghiệp khác trong và ngoài nước, tiếp tục trao đổi để chúng ta có được tiếng nói chung, thiết thực góp phần vào việc giải quyết các loại tranh chấp phức tạp trong Biển Đông.
 
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, chúng ta đều đã từng nếm trải cái giá mà nhân loại phải trả cho những tranh chấp vì lợi ích bất công và phi nghĩa của một số thế lực. Vì vậy, cần phải nhanh chóng cùng hành động vì một thế giới văn minh, hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển./.
 

TS. Trần Công Trục - Nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ, Việt Nam.

 

(1) Sách trắng của Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh thổ bất khả xâm phạm của CHXHCN Việt Nam”.
(2) Tuyên bố của Chính phủ CHXHCN Việt Nam về hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam ngày 12 tháng 11 năm 1982.

 

____________________________
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
 

Quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối

Quá trình thụ đắc lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa được Việt Nam thực hiện bằng phương thức chiếm hữu thực sự, hoàn toàn hợp pháp. Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh hòa bình vì quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối này.
CUỘC CHIẾN PHÁP LÝ TẠI BIỂN ĐÔNG: Bảo vệ trật tự dựa trên quy tắc tại Biển Đông - Thách thức đầy rẫy và 'mỏ neo' quý giá (Kỳ 1)
Vấn đề xác lập, bảo vệ các quyền hợp pháp của quốc gia trong Biển Đông (phần 3)
Cẩn thận yêu sách chủ quyền lịch sử- bẫy pháp lý Trung Quốc ở Biển Đông (phần 2)
Sách tranh cho các bé: 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'

Hành trình phiêu lưu kỳ thú của chú cún Phong Ba ở đảo Trường Sa đã thu hút nhiều bạn nhỏ và cả ba mẹ đến theo dõi trong buổi ra mắt quyển sách tranh thiếu nhi 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'.
Từ thác Bản Giốc, ải Nam Quan... đến Hoàng Sa, Trường Sa
Giải B Sách Quốc gia: Sách quý về quần đảo Trường Sa
"Bức họa Trường Sa"
 

 

Dự án thông tin về Biển Đông của Vietnam Bussines Consulting
Email: vnsea@mail.ru
Ghi rõ nguồn www.vnsea.net khi phát hành lại thông tin từ website này
Информационный портал VBC об Южно-Китайском море.
Copyright © 2012 Vnsea. Все права защищены.