Thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa: Sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế
Wednesday, December 04, 2019 11:36 PM GMT+7
(NB&CL) Tại nhiều cuộc hội nghị cấp cao của thế giới, các quốc gia đều mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của đất nước hình chữ S.

Trong số báo trước, chúng tôi đã nói về bộ Atlas bản đồ thế giới của nhà địa lý học Philippe Vandermaelen - tài liệu khoa học vô giá, có giá trị pháp lý quốc tế cao trong việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng đó chưa phải là sự công nhận duy nhất của cộng đồng quốc tế về chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Tại nhiều cuộc hội nghị cấp cao của thế giới, các quốc gia đều mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của đất nước hình chữ S.

Toàn cảnh Hội nghị Potsdam năm 1945.

Toàn cảnh Hội nghị Potsdam năm 1945.

Hội nghị Cairo năm 1943

Khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II đang vào giai đoạn “nước rút” với những diễn biến mang tính bước ngoặt, ba nước Anh, Mỹ và Trung Quốc (Cộng hòa Trung Hoa) đã nhóm họp tại Cairo (Ai Cập) ngày 27/11/1943 để xem xét một số vấn đề quan trọng của thế giới có liên quan đến biên giới lãnh thổ. Cũng bởi sự góp mặt của ba cường quốc này mà Hội nghị này đã đi vào sử sách với tên gọi Hội nghị tam cường Anh - Mỹ - Trung. Kết thúc Hội nghị, đại diện ba cường quốc: Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt, Thủ tướng Anh Churchill và Tổng thống Trung Hoa Dân quốc Tưởng Giới Thạch đã cùng ký vào một văn kiện lịch sử có tên gọi Tuyên bố Cairo. Tuyên bố này khẳng định: “Phải tước bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cả các hải đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật Bản đã cưỡng đoạt hay chiếm đóng từ đầu Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và trả lại Trung Hoa Dân quốc tất cả các lãnh thổ đã bị Nhật Bản cướp của Trung Hoa, như Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ, và trục xuất Nhật Bản khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà Nhật chiếm được bằng vũ lực”.

Như vậy, theo Tuyên bố này, lãnh thổ của Trung Quốc đã được phân định rõ, không có gì liên quan đến chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều đáng lưu ý, Trung Quốc là một bên tham gia bản Tuyên cáo và đích thân Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã có mặt tại các cuộc hội đàm kéo dài nhiều ngày ở Hội nghị Cairo nhưng không hề có sự đề cập đến việc chuyển giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Ngoài ra, Tuyên bố Cairo đã không đề cập đến chủ quyền của quốc gia nào đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì hai quần đảo này đã thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt Nam từ lâu, ít nhất là từ thế kỷ XVII đã có những chứng cứ lịch sử chứng minh chủ quyền thuộc về Nhà nước Việt Nam. 

Một điểm rất đáng lưu ý nữa là Tuyên cáo Cairo ngày 27/11/1943 cũng đã được đại diện Liên Xô tán thành tại Hội nghị Teheran ngày 30/11/1943 giữa Tổng thống Roosevelt, Thủ tướng Churchill và Nguyên soái Stalin. Trong phiên Hội nghị này, Stalin cho biết ông đã đọc Tuyên cáo Cairo với đầy đủ nội dung của nó và cho rằng việc giao hoàn Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ cho Trung Quốc là hợp lý. Tuy nhiên, Stalin cũng không hề đề cập đến việc đến chuyển giao quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.

Hội nghị Postdam năm 1945

Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc ở mặt trận châu Âu, tháng 7/1945, các nước Mỹ, Anh và Liên Xô tổ chức Hội nghị Potsdam (tại Đức) để thảo luận về những biện pháp chế tài áp dụng cho nước Đức và về tương lai chính trị của các nước Đông Âu và Trung Âu sau Thế chiến thứ II. Tại Hội nghị này, hai văn bản pháp lý quốc tế quan trọng đã được ký kết gồm: Hiệp định Potsdam ngày 2/8/1945 được ký bởi đại diện của 3 cường quốc phe đồng minh là Liên Xô, Anh, Mỹ, cùng với bản Tuyên bố Potsdam ngày 26/7/1945 được ký bởi Winston Churchill, Harry Truman và Tưởng Giới Thạch. Tuyên bố Potsdam ấn định thể thức giải giáp quân đội Nhật Bản sau khi chiến tranh Thái Bình Dương kết thúc.

Đối với Việt Nam, để giải giáp quân đội Nhật, ba nước Anh - Mỹ - Liên Xô đã quyết định chia Việt Nam thành 2 khu vực từ vĩ tuyến 16. Theo đó, phía Trung Quốc do phái đoàn Cộng hòa Trung Hoa (Quốc dân đảng) có nghĩa vụ giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 ra Bắc, trong đó có quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam tọa lạc tại vĩ tuyến 16: nhóm Lưỡi Liềm phía Tây Nam tại vĩ độ 16 độ 30’ Bắc và nhóm An Vĩnh phía Đông Bắc tại vĩ độ 16 độ 50’ Bắc. Trong khi đó, quân đội Anh có nghĩa vụ giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, kể cả quần đảo Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến từ 12 độ đến 7 độ Bắc, tính từ Cam Ranh xuống tỉnh Cà Mau.

Hội nghị San Francisco năm 1951

Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, Nhật Bản là nước bại trận nên toàn bộ phần lãnh thổ do nước này chiếm đóng cần được phân định bằng một hiệp ước quốc tế. Theo đó, từ ngày 04 đến 08/9/1951, với sự tham dự của 51 quốc gia, Hội nghị San Francisco được tổ chức để bàn về việc ký Hòa ước hòa bình với Nhật Bản. Phái đoàn Quốc gia Việt Nam đại diện cho Nhà nước Việt Nam do Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu thuộc Chính phủ Bảo Đại làm trưởng đoàn cũng được mời tham gia hội nghị.

Trong phiên họp toàn thể thứ hai của hội nghị San Francisco (ngày 5/9/1951), đại biểu Liên Xô là Andrei A. Gromyko đã chỉ trích tính bất hợp pháp và sự vô nghĩa của bản dự thảo hòa ước của Anh. Trên thực tế không chỉ riêng Anh mà Mỹ cũng đưa ra những ý kiến bất hợp lý. Đó là việc Mỹ đưa ra một đề nghị 7 điểm gọi là để hướng dẫn việc ký kết hòa ước thực sự với Nhật Bản. Trong đó, có điểm thứ 6 đề nghị trao trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lãnh thổ của Việt Nam cho Trung Quốc. Tuy nhiên, Hội nghị đã bác bỏ yêu cầu này với 48 phiếu chống vì chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã thuộc về Nhà nước Việt Nam từ lâu.

Tại San Francisco năm 1951, phái đoàn Quốc gia Việt Nam đã ra tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cụ thể, ngày 7/9/1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu đã ra tuyên bố xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước 51 phái đoàn ngoại giao của các nước thành viên Liên hợp quốc: “Và để tận dụng không ngần ngại mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống bất hòa, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc cương vực Việt Nam”.

Lời tuyên bố đó đã được Hội nghị San Francisco ghi vào biên bản và trong tất cả 51 phái đoàn tham dự hội nghị, không có một phái đoàn nào phản đối thể hiện bằng văn bản.

Về khía cạnh pháp lý, việc công bố khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước các quốc gia thành viên Liên hợp quốc cho thấy từ năm 1951 các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được các quốc gia trên thế giới đương nhiên thừa nhận là lãnh thổ thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Sự kiện 92% các quốc gia thành viên Liên hợp quốc thừa nhận chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có giá trị tuyệt đối phù hợp với luật pháp quốc tế, buộc các quốc gia khác phải thừa nhận, kể cả đối với những quốc gia và vùng lãnh thổ không tham dự Hội nghị như Trung Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan.

Việc hòa ước San Francisco tách riêng Đài Loan, Bành Hồ và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thành hai khoản riêng biệt (b, f) tự nó đã bao hàm ý nghĩa không công nhận chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc. Tại khoản f quy định: “Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, tước hiệu và đòi hỏi đối với quần đảo Trường Sa (Spratly) và Hoàng Sa (Paracel)”.

Ngay sau khi đặt ách đô hộ Việt Nam, Chính phủ Pháp đã yêu cầu Khâm sứ ở Trung Kỳ Le Fol tìm hiểu rõ vấn đề chủ quyền của An Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa. Qua các tài liệu thấy rõ những hoạt động thể hiện chủ quyền từ thời Chúa Nguyễn và nhà Nguyễn (từ giữa thế kỷ XVI) nên đã quyết định chiếm giữ hai quần đảo này. Trong thư gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, Toàn quyền Đông Dương Pasquier đã xác nhận: “Việc chiếm hữu quần đảo Spartley (tức Hoàng Sa) do Pháp tiến hành năm 1931 - 1932 là nhân danh Hoàng Đế “An Nam”. Trong trường hợp này, cái danh nghĩa duy nhất mà Pháp đòi hỏi ở đây là việc thực thi chủ quyền có từ trước, là những danh nghĩa của “An Nam”, với tư cách là nước bảo hộ, chịu trách nhiệm về các quan hệ đối ngoại của “An Nam”, Pháp có thể sử dụng các quyền đó để chặn các nước thứ ba, và có thể nhận được sự xét xử quốc tế việc thừa nhận các quyền nói trên”. Trên thực tế, ngày 31/3/1939, khi Nhật Bản tuyên bố sáp nhập các quần đảo ở Biển Đông vào các vùng lãnh thổ mà nước này chiếm đóng, Pháp đã gửi công hàm (ngày 04/4/1939) phản đối các quyết định nói trên của Nhật Bản và bảo lưu các quyền của Pa-ri tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

____________________________
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
 

Quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối

Quá trình thụ đắc lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa được Việt Nam thực hiện bằng phương thức chiếm hữu thực sự, hoàn toàn hợp pháp. Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh hòa bình vì quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối này.
CUỘC CHIẾN PHÁP LÝ TẠI BIỂN ĐÔNG: Bảo vệ trật tự dựa trên quy tắc tại Biển Đông - Thách thức đầy rẫy và 'mỏ neo' quý giá (Kỳ 1)
Vấn đề xác lập, bảo vệ các quyền hợp pháp của quốc gia trong Biển Đông (phần 3)
Cẩn thận yêu sách chủ quyền lịch sử- bẫy pháp lý Trung Quốc ở Biển Đông (phần 2)
Sách tranh cho các bé: 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'

Hành trình phiêu lưu kỳ thú của chú cún Phong Ba ở đảo Trường Sa đã thu hút nhiều bạn nhỏ và cả ba mẹ đến theo dõi trong buổi ra mắt quyển sách tranh thiếu nhi 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'.
Từ thác Bản Giốc, ải Nam Quan... đến Hoàng Sa, Trường Sa
Giải B Sách Quốc gia: Sách quý về quần đảo Trường Sa
"Bức họa Trường Sa"
 

 

Dự án thông tin về Biển Đông của Vietnam Bussines Consulting
Email: vnsea@mail.ru
Ghi rõ nguồn www.vnsea.net khi phát hành lại thông tin từ website này
Информационный портал VBC об Южно-Китайском море.
Copyright © 2012 Vnsea. Все права защищены.