"Gác tranh chấp, cùng khai thác" kiểu Trung Quốc
Tuesday, February 28, 2012 6:23 PM GMT+7
Gần đây, chủ trương "gác tranh chấp, cùng khai thác" được Trung Quốc nhấn mạnh nhiều lần như một sáng kiến mang tính xây dựng trong bối cảnh tranh chấp trên Biển Đông vẫn đang căng thẳng. Xét đến tính phức tạp và khó tìm lối ra hiện tại đối với tranh chấp Biển Đông, giải pháp này có thể chấp nhận được nếu các bên cùng "gác tranh chấp, cùng khai thác" một cách công bằng.

Bài viết dưới đây phân tích chủ trương "gác tranh chấp, cùng khai thác" của phía Trung Quốc, từ đó đi tới nhận định giải pháp này có thể chấp nhận được nếu các bên cùng "gác tranh chấp, cùng khai thác" một cách công bằng. Như vậy phải có những nguyên tắc công bằng không có trong quan niệm của Trung Quốc về "gác tranh chấp, cùng khai thác".

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

Tại hội thảo quốc tế với chủ đề "Biển Đông: tăng cường hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực" ở Hà Nội ngày 26-27/11/2009[1], GS Ji Guoxing của Đại học Jiaotong, Thượng Hải, nguyên giám đốc bộ môn Châu Á - Thái Bình Dương của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Thượng Hải, nhắc lại chủ trương "gác tranh chấp, cùng khai thác" của Trung Quốc[2].

GS Ji Guoxing đề xuất rằng, trước hết, các bên trong tranh chấp phải thoả thuận được một khuôn khổ chung cho việc khai thác trên toàn bộ Biển Đông. GS Ji Guoxing cụ thể hoá bằng cách đề nghị Việt Nam và Trung Quốc bàn về khả năng cùng khai thác bãi Tư Chính, một khu vực nằm gần như hoàn toàn bên trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam, không thuộc quần đảo Trường Sa vốn đang trong tình trạng tranh chấp chủ quyền[3].

Trong khi đó, chủ trương "gác tranh chấp, cùng khai thác" của Trung Quốc không bao gồm quần đảo Hoàng Sa, nơi Trung Quốc đang chiếm đóng. Thậm chí, Trung Quốc còn cho rằng không tồn tại tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa[4].

Tại buổi họp báo ở Hà Nội ngày 6/1/2010[5], Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường cũng đề nghị chủ trương "gác tranh chấp, cùng khai thác".

Đại sứ Tôn Quốc Tường nói, "Lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đã nêu ra một sáng kiến mang tính xây dựng, đó là gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác", và đề nghị rằng Việt Nam và Trung Quốc nên tạm gác lại tranh chấp, đợi điều kiện chín muồi.

"Nếu điều kiện chín muồi, hai bên giải quyết được vấn đề, chắc chắn sẽ thúc đẩy phát triển quan hệ hai bên chúng ta. Nếu điều kiện chưa chín muồi, làm cản trở cho quan hệ hai nước thì điều cần phải làm và nên làm là gác lại vấn đề. Trong quan hệ hai nước còn có nhiều công việc cần cố gắng, nỗ lực, có nhiều hợp tác có thể tiến hành...

Trong khi phát triển quan hệ song phương và chờ đợi điều kiện chín muồi, hai bên có điều kiện giải quyết vấn đề này tốt hơn và sẽ đưa ra phương án giải quyết hợp lý hơn nữa."

Bài viết này phân tích chủ trương "gác tranh chấp, cùng khai thác" của Trung Quốc mà Đại sứ Tôn Quốc Tường cho là một sáng kiến mang tính xây dựng của  Trung Quốc.

Nguồn gốc của chủ trương "gác tranh chấp, cùng khai thác" của Trung Quốc

Bối cảnh tranh chấp quần đảo Shenkaku/Điếu Ngư Đài

Chủ trương "Gác tranh chấp, cùng khai thác" được Trung Quốc chính thức đề nghị lần đầu tiên trong văn cảnh tranh chấp chủ quyền quần đảo Shenkaku (tên Nhật)/Điếu Ngư Đài (tên Trung Quốc) giữa Nhật và Trung Quốc.

Trong chuyến thăm Nhật, ngày 25/10/1978, Thủ Tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nói với Thủ Tướng Nhật Takeo Fukuda rằng có thể để các thế hệ sau giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với Shenkaku/Điếu Ngư Đài; trong quan hệ ngoại giao, hai nước nên lấy quyền lợi chung làm ưu tiên[6].

Thực tế cho thấy Nhật và Trung Quốc đã đi theo phương hướng "gác tranh chấp" này.

Điều đáng lưu ý là Nhật là nước đang kiểm soát Shenkaku/Điếu Ngư Đài. Trong tranh chấp chủ quyền, nếu tranh chấp được gác lại thì có lợi cho nước đang kiểm soát lãnh thổ trong tình trạng tranh chấp. Vì vậy việc gác tranh chấp có lợi cho Nhật hơn cho Trung Quốc.

Trong bối cảnh vào cuối thập niên 1970, Trung Quốc cần mở rộng quan hệ quốc tế. Có lẽ vì nhu cầu đó Trung Quốc đã phải đề nghị gác tranh chấp Shenkaku/Điếu Ngư Đài, một đề nghị có lợi cho Nhật hơn cho Trung Quốc trong phạm trù tranh chấp chủ quyền, để thuận tiện cho việc phát triển quan hệ với Nhật.

Ngày 11/5/1979, Đặng Tiểu Bình nói với đại biểu quốc hội Nhật Zenko Suzuki rằng Trung Quốc và Nhật có thể cùng khai thác vùng biển lân cận đảo Shenkaku/Điếu Ngư Đài mà không đề cập đến tranh chấp chủ quyền đối với đảo.

Điều đáng lưu ý là Shenkaku/Điếu Ngư Đài và vùng biển lân cận nằm dưới sự kiểm soát của Nhật, và vùng biển này gần Nhật và Đài Loan hơn Trung Quốc, cho nên Nhật có nhiều khả năng để đơn phương khai thác vùng biển này hơn Trung Quốc. Vì vậy, đề nghị của Trung Quốc để khai thác chung vùng biển này là một đề nghị có lợi cho Trung Quốc hơn là có tính xây dựng cho cả Trung Quốc và Nhật.

Trên thực tế, cho tới nay, Nhật luôn luôn khước từ tất cả các đề nghị của Trung Quốc để khai thác vùng biển lân cận đảo này.

Bối cảnh tranh chấp Trường Sa

Khi Trung Quốc bắt đầu phát triển quan hệ ngoại giao với ASEAN trong hai thập niên 1970 và 1980, một phần là để mở rộng quan hệ ngoại giao, một phần là để đối trọng Việt Nam, Đặng Tiểu Bình đưa ra với ASEAN đề xuất về tranh chấp Trường Sa mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho là hợp lý[7]:

  • Quần đảo Trường Sa là một phần không tách rời được của Trung Quốc từ thời cổ xưa.

Tranh chấp chủ quyền phát sinh từ thập niên 1970.

  • Vì quan hệ hữu nghị với những nước liên quan, Trung Quốc muốn tạm gác tranh chấp sang một bên và sau này tìm một giải pháp mà cả hai bên có thể chấp nhận được.

  • Các bên nên tránh xung đột vũ trang và nên tìm cách khai thác chung.

Tháng 6/1986, Đặng Tiểu Bình đề nghị với Phó Tổng Thống Philippines Salvador Laurel rằng Trung Quốc và Philippines nên gác tranh chấp Trường Sa, "không nên để vấn đề này cản trở tình hữu nghị của Trung Quốc với Philippines và các nước khác"[8].

Tháng 4/1988, Đặng Tiểu Bình đề nghị với Tổng Thống Philippines Corazon Aquino, "Xét quan hệ hữu nghị giữa hai nước chúng ta, chúng ta có thể tạm gác vấn đề này và tiếp cận theo hướng khai thác chung"[9].

Ngay cả khi đề nghị gác tranh chấp, Đặng Tiểu Bình cũng "giải thích" rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với Trường Sa. Theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình nói thẳng rằng, "Các bản đồ thế giới luôn vẽ Trường Sa thuộc Trung Quốc.", "Chúng tôi có nhiều bằng chứng. Các bản đồ thế giới của nhiều nước cũng chứng minh điều này." Đặng Tiểu Bình cũng nói với Tổng Thống Corazon Aquino rằng Trung Quốc có nhiều thẩm quyền nhất về vấn đề Trường Sa vì Trường Sa luôn luôn là một phần của lãnh thổ Trung Quốc[10].

Điều đáng lưu lý là vào đầu năm 1988 Trung Quốc chiếm đóng những bãi cạn Đá Chữ Thập, Châu Viên, Gaven, Huy Gơ và Xu Bi thuộc quần đảo Trường Sa và vào tháng 4/1988 máu của các chiến sĩ Việt Nam còn chưa tan hết trên biển Trường Sa sau khi Trung Quốc tấn công chúng ta để chiếm Cô Lin, Gạc Ma và Len Đao ngày 14/3/1988 và chiếm được Gạc Ma. Đây là một thí dụ cho thấy giới hạn của điều mà Trung Quốc gọi là "gác tranh chấp".

Rõ ràng nếu nói "Gác tranh chấp" mà kèm theo lời nói "Đó là của Trung Quốc", thậm chí kèm theo hành động chiếm đoạt thêm, thì đó không phải là "gác lại tranh chấp" mà nghĩa thật của nó là "các nước khác đừng tranh chấp".

Trong đề nghị và cách ứng xử của Trung Quốc, "giải pháp mà cả hai bên có thể chấp nhận được" có vẻ không phải là một sự phân định chủ quyền công bằng mà là một giải pháp trong đó các nước khác đành phải chấp nhận chủ quyền Trung Quốc, và, đáp lại, Trung Quốc sẽ chấp nhận cho những nước này một số quyền lợi nhất định nào đó.

Như vậy, sáng kiến "gác tranh chấp, cùng khai thác" của chính phủ Đặng Tiểu Bình cho tranh chấp Trường Sa không phải do tính xây dựng mà là để phục vụ mục đích đối trọng Việt Nam nói chung và chiếm đoạt Trường Sa từ Việt Nam nói riêng.

Bắt đầu từ thập niên 1990, yêu sách của Trung Quốc được nâng cao để bao gồm tất cả diện tích bên trong ranh giới 9 đoạn của nước này, và chủ trương "gác tranh chấp, cùng khai thác" được Trung Quốc đề nghị cho tất cả diện tích đó.

Như vậy, việc Trung Quốc áp dụng khái niệm "gác tranh chấp, cùng khai thác" cho yêu sách ranh giới 9 đoạn không phải do tính xây dựng mà là để Trung Quốc đòi hỏi khai thác chung trong những vùng biển mà Trung Quốc đòi hỏi một cách vô lý, thí dụ như trong vùng Tư Chính - Vũng Mây và Nam Côn Sơn của Việt Nam.

Chúng ta có thể hiểu rõ thêm về khái niệm "gác tranh chấp, cùng khai thác" của Trung Quốc từ giải thích trên trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc.

Giải thích của Trung Quốc về "gác tranh chấp, cùng khai thác"

Theo bài "Set aside dispute and pursue joint development" đăng trên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, khái niệm "gác tranh chấp, cùng khai thác" có 4 yếu tố[11]:

1.     Chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ liên quan thuộc về Trung Quốc.

2.     Khi điều kiện chưa chín muồi để có giải pháp quán triệt, hoãn lại đàm phán về chủ quyền - để có thể gác tranh chấp sang một bên. Gác tranh chấp không có nghĩa từ bỏ chủ quyền [mà chủ quyền duy nhất được đề cập tới là chủ quyền Trung Quốc - tác giả].

3.     Khai thác chung các vùng lãnh thổ liên quan.

4.     Mục đích của khai thác chung là nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau và tạo điều kiện cho giải pháp cuối cùng về chủ quyền lãnh thổ [mà chủ quyền duy nhất được đề cập tới là chủ quyền Trung Quốc - tác giả].

4 yếu tố này có một số vấn đề căn bản.

Thứ nhất, "Chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ liên quan thuộc về Trung Quốc" là một trong những yếu tố của khái niệm "gác tranh chấp, cùng khai thác", nhưng khả năng chủ quyền thuộc về những nước khác đối với toàn bộ hay một phần lãnh thổ bị tranh chấp thuộc về các nước khác không được đề cập tới. Yếu tố này chính là một sự tranh chấp chủ quyền và đi ngược với tinh thần "gác tranh chấp".

Thứ nhì, điều kiện thế nào là chín muồi để có giải pháp quán triệt? Cần làm gì để có những điều kiện đó. Thế nào là giải pháp quán triệt?

Theo ý kiến của tác giả, chỉ có phân định chủ quyền một cách công bằng mới có thể là giải pháp quán triệt. Để phân định chủ quyền một cách công bằng cần phải có đàm phán hoặc phân xử bởi một trọng tài công bằng, thí dụ như Toà án Công lý Quốc tế. Hoãn lại đàm phán về chủ quyền không thuận tiện cho điều kiện chín muồi cho việc phân định chủ quyền một cách công bằng.

Có thể là điều kiện chín muồi mà Trung Quốc đề cập tới là điều kiện chín muồi để thực hiện yếu tố thứ nhất: "Chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ liên quan thuộc về Trung Quốc".

Thứ ba, đâu là các vùng lãnh thổ liên quan có thể khai thác chung? Việc khai thác chung chỉ có thể công bằng trong những vùng lãnh thổ mà lý lẽ chủ quyền của các bên trong tranh chấp hợp lý hơn một mức tối thiểu nào đó. Không thể chấp nhận được việc một nước đòi hỏi tới đâu thì các nước kia phải khai thác chung với nước đó tới đó.

Ranh giới 9 đoạn của Trung Quốc quá vô lý cho nên nếu khai thác chung với Trung Quốc trên cơ sở ranh giới đó thì sẽ không thể công bằng.

Không những thế, Trung Quốc không chấp nhận Việt Nam khai thác chung khu vực Hoàng Sa, trong khi lý lẽ chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa hợp lý hơn mức tối thiểu cho việc Việt Nam khai thác chung.

Yếu tố thứ tư cho thấy mục đích tối hậu của Trung Quốc trong đề nghị khai thác chung là tạo điều kiện cho yếu tố thứ nhất, tức là "Chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ liên quan thuộc về Trung Quốc".

Như vậy, mặc dù khái niệm "gác tranh chấp, cùng khai thác" trên phương diện đó là một nguyên tắc chung thì có thể chấp nhận được, nhưng với những quan niệm của Trung Quốc đằng sau nó thì trước mắt sẽ bất công cho Việt Nam và về lâu về dài sẽ nguy hại cho chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, không chỉ đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, mà còn đối với cả những vùng biển bị ranh giới 9 đoạn của Trung Quốc đe doạ.

Để có thể gác tranh chấp, cùng khai thác một cách công bằng, phải có những nguyên tắc công bằng không có trong quan niệm của Trung Quốc về "gác tranh chấp, cùng khai thác".

Khai thác chung Biển Đông và những nguyên tắc công bằng

Xác định khu vực tranh chấp một cách hợp lý

Trước khi có thể gác tranh chấp, cùng khai thác, trước hết phải xác định khu vực tranh chấp một cách hợp lý. Lý lẽ của một bên để tranh chấp một vùng lãnh thổ phải hợp lý hơn một mức tối thiểu nào đó. Không thể có chuyện hễ một nước tranh chấp vùng lãnh thổ nào thì nước kia nên gác tranh chấp, cùng khai thác vùng lãnh thổ đó với nước thứ nhất.


Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa


Đối với tranh chấp Biển Đông, quan điểm quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa là lãnh thổ trong tình trạng tranh chấp chủ quyền là quan điểm hợp lý[12]. Nếu các nước trong tranh chấp lựa chọn gác tranh chấp, cùng khai thác thì có thể áp dụng cho những vùng lãnh thổ này.


Quan điểm của Trung Quốc rằng quần đảo Hoàng Sa là của Trung Quốc, không phải lãnh thổ trong tình trạng tranh chấp, và, vì vậy không khai thác chung, là quan điểm vô lý. Nếu Việt Nam chấp nhận Trung Quốc khai thác chung quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc không chấp nhận Việt Nam khai thác chung quần đảo Hoàng Sa thì có nghĩa Việt Nam bị thiệt thòi bởi quan điểm vô lý của Trung Quốc.


Yêu sách đường 9 đoạn của Trung Quốc là một yêu sách vô lý[13]. Nếu các nước bị yêu sách này đe doạ gác tranh chấp với Trung Quốc, cùng với Trung Quốc khai thác trên cơ sở yêu sách đường 9 đoạn này thì trước mắt sẽ bị thiệt thòi bởi yêu sách vô lý của Trung Quốc, và về lâu về dài sẽ bị thiệt hại vì việc khai thác chung sẽ tạo điều kiện cho Trung Quốc thực hiện ranh giới đường 9 đoạn đó.


Vì vậy, để việc gác tranh chấp, cùng khai thác có thể công bằng, trước nhất Trung Quốc phải từ bỏ yêu sách đường 9 đoạn và phải chấp nhận rằng việc gác tranh chấp, cùng khai thác phải bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa[14].


Vùng biển thuộc Hoàng Sa và Trường Sa


Tất nhiên nếu công nhận rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ trong tình trạng tranh chấp chủ quyền thì những vùng biển thuộc hai quần đảo này cũng trong tình trạng tranh chấp chủ quyền. Các nước liên quan phải xác định vùng biển thuộc Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa một cách hợp lý và rõ ràng. Các nước này nên xác định vùng biển thuộc Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa[15] một cách khách quan, khoa học, thí dụ như:
 

  • Đàm phán đa phương để xác định vùng biển thuộc Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa dựa trên luật quốc tế và tập quán quốc tế,

  • Yêu cầu Toà án Công lý Quốc tế ban một Ý kiến Tư vấn xác định vùng biển thuộc Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
     

Những tuyên bố đơn phương, mập mờ, có tính toán của Trung Quốc, thí dụ như "vùng biển lân cận và vùng biển liên quan" không hợp lý, không có cơ sở trong luật quốc tế và đi ngược với tinh thần gác tranh chấp, cùng khai thác một cách công bằng.

Các vùng biển khác


Nếu vùng biển thuộc một nước được xác định một cách tương đối hợp lý nằm chồng lấn lên vùng biển thuộc một nước khác, cũng được xác định một cách tương đối công bằng, hoặc nằm chồng lấn lên vùng biển thuộc Hoàng Sa, Trường Sa, thì vùng chồng lấn nằm trong tình trạng tranh chấp chủ quyền, và trên nguyên tắc có thể áp dụng khái niệm gác tranh chấp, cùng khai thác.


Thí dụ, giữa Mũi Cà Mau và bán đảo Mã Lai, tồn tại một vùng chồng lấn do Việt Nam dùng Hòn Khoai trong việc vẽ ranh giới và Mã Lai không chấp nhận việc Việt Nam dùng Hòn Khoai trong việc vẽ ranh giới. Có thể nói rằng Việt Nam và Mã Lai đang gác tranh chấp, khai thác chung vùng chồng lấn.


Gác tranh chấp thế nào?


Theo quan điểm của Trung Quốc, gác tranh chấp là có thể ngưng đàm phán phân định chủ quyền, trong khi Trung Quốc tăng cường những hành động đơn phương cương và nhu để chiếm đoạt chủ quyền và tạo điều kiện cho việc chiếm đoạt chủ quyền.


Thí dụ, việc Trung Quốc cấm đánh cá phía Bắc vĩ độ 12 hàng năm từ năm 1999, việc Trung Quốc xâm phạm ngư dân Việt Nam năm nay, việc Trung Quốc tăng cường "tuần tra" Biển Đông bằng những tàu ngư chính, việc Trung Quốc tuyên bố dự án khải sát và khai thác Biển Đông, việc Trung Quốc gây láp lực với BP và Exxon-Mobil, việc Trung Quốc ký hợp đồng khảo sát trong vùng Tư Chính-Vũng Mây, không phải là gác tranh chấp. Đó chính là những hành động tranh chấp chủ quyền. Không những thế, một số hành động đó là leo thang tranh chấp ngay cả trong những khu vực mà Trung Quốc không có lý lẽ hợp lý để tranh chấp chủ quyền.


Để việc gác tranh chấp có thể là sự thật, các nước trong tranh chấp phải ngưng hay hạn chế những hành động cương và nhu để chiếm đoạt chủ quyền và tạo điều kiện cho việc chiếm đoạt chủ quyền. Thêm vào đó, các nước liên quan phải ký kết rằng sẽ không dùng những gì mình làm trong thời gian gác tranh chấp như chứng cớ cho lý lẽ chủ quyền.


Cùng khai thác ở đâu?


Để việc cùng khai thác có thể công bằng, điều căn bản là vùng khai thác chung phải hợp lý. Thí dụ:
 

  • Vùng khai thác chung Việt Nam-Mã Lai là hợp lý.

  • Nếu Việt Nam và Mã Lai khai thác chung vùng thềm lục địa mà Việt Nam và Mã Lai đã nộp báo cáo chung cho LHQ thì có thể hợp lý.

  • Nếu Việt Nam và Trung Quốc khai thác chung vùng biển lân cận và vắt ngang đường trung tuyến ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ thì có thể hợp lý.

  • Nếu Việt Nam và trung Quốc khai thác chung vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa, và vùng biển này được xác định một cách công bằng thì có thể hợp lý.

  • Ngược lại, khai thác chung vùng Tư Chính-Vũng Mây, như GS Ji Guoxing đề nghị, sẽ không hợp lý và sẽ thiệt thòi cho Việt Nam. Nếu Trung Quốc được khai thác chung vùng Tư Chính-Vũng Mây thì sẽ công bằng nếu Việt Nam được khai thác chung vùng biển Đài Loan.

  • Nếu Trung Quốc được khai thác chung vùng biển thuộc Trường Sa nhưng Việt Nam không được khai thác chung vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa, như Trung Quốc muốn, thì sẽ sẽ không hợp lý và sẽ thiệt thòi cho Việt Nam.

    Ngay cả nếu vùng khai thác chung hợp lý, việc chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi cũng phải hợp lý và công bằng. Để công bằng, tỷ lệ trách nhiệm và quyền lợi cho mỗi nước phải tương đương với tỷ lệ diện tích của vùng khai thác chung thuộc về mỗi nước.

    Có thể minh hoạ như sau: nếu A và B khái thác chung 3 mẫu ruộng, trong đó 2 mẫu là của A và 1 mẫu là của B, thì A có 2 phần trách nhiệm và quyền lợi, B có 1 phần.


    Khó khăn cho khái niệm "gác tranh chấp, cùng khai thác" là các nước sẽ khai thác chung trước khi phân định chủ quyền, tức là trong khi chưa biết tỷ lệ diện tích của vùng khai thác chung thuộc về mỗi nước. Vì không biết tỷ lệ cho việc chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi, các nước liên quan có thể tạm chia sẻ đồng đều.


    Vì vậy, chỉ nên cùng khai thác trong những vùng đã được phân định chủ quyền, hoặc những vùng mà chúng ta có mức tin tưởng cao rằng chia sẻ đồng đều là chia sẻ công bằng, hoặc những vùng có diện tích nhỏ (để nếu việc chia sẻ đồng đều không công bằng thì sự không công bằng cũng nhỏ).


    Nếu khai thác chung dọc ranh giới 9 đoạn của Trung Quốc thì chắc chắn sẽ không hợp lý, không công bằng, và sự thiệt thòi cho Việt Nam sẽ rất lớn.


    Một số trường hợp khai thác chung


    Đông Nam Á


    Việt Nam và các nước Đông Nam Á đã có những thoả thuận về hợp tác hay khai thác chung đối với các vùng biển trong vùng tranh chấp như sau:


    1. Bản ghi nhớ khai thác chung Thái Lan-Mã Lai 1979.


    2. Thoả thuận sử dụng chung vùng nước lịch sử Việt Nam-Campuchia 1982.


    3. Thoả thuận khai thác chung Việt Nam-Mã Lai cho vùng chồng lấn trong Vịnh Thái Lan và ngoài cửa Vịnh Thái Lan 1992.


    4. Thoả thuận trên nguyên tắc khai thác chung Việt Nam-Thái Lan-Mã Lai trong vùng chồng lấn 3 nước trong Vịnh Thái Lan 1999.


    5. Việt Nam và Mã Lai nộp báo cáo chung cho LHQ về ranh giới ngoài của thềm lục địa.

    Trong những trường hợp trên tất cả các vùng khai thác chung đều lân cận các đường yêu sách tương đối hợp lý. Thí dụ: 

    • Thái Lan đòi hỏi dùng đảo Ko Losin để vẽ đường trung tuyến với Mã Lai; Mã Lai không chấp nhận việc dùng đảo Ko Losin.

    • Campuchia đòi hỏi rằng ranh giới biển với Việt Nam là đường Brevié là ranh giới biển với Việt Nam; Việt Nam cho rằng đường Brevié là đường phân chia các đảo, ranh giới biển phải là đường trung tuyến.

    • Việt Nam đòi hỏi dùng Hòn Khoai để vẽ đường trung tuyến với các đảo ven bờ bán đảo Mã Lai; Mã Lai không chấp nhận việc dùng đảo Hòn Khoai.

    Trong tất cả những trường hợp trên, các yêu sách đối kháng không tạo ra vùng chồng lấn nào vô lý như các vùng chồng lấn tạo ra bởi đường 9 đoạn của Trung Quốc. Thêm vào đó, các nước liên quan không có những hành đông cương và nhu nhằm chiếm đoạt chủ quyền hay tạo điều kiện cho việc chiếm đoạt chủ quyền đối với các vùng tranh chấp.

    Những trường hợp hợp tác này cho thấy
     

  • việc gác tranh chấp một cách thật sự là gác tranh chấp, với tính chất thật sự là xây dựng,

  • việc hợp tác, khai thác chung một cách thật sự công bằng, tôn trọng lẫn nhau, không phải là một ý kiến mới đối với Việt Nam và Mã Lai.

Không những thế, việc Việt Nam và Mã Lai nộp báo cáo chung cho LHQ về thềm lục địa cho thấy Việt Nam và Mã Lai có thể gác ngay cả tranh chấp Trường Sa để hợp tác trong việc tuân thủ Công ước LHQ về Luật Biển. Việc Trung Quốc phản đối các báo cáo thềm lục địa của Việt Nam và Mã Lai cho thấy Trung Quốc cần rút kinh nghiệm từ Việt Nam và Mã Lai trong việc thật sự gác tranh chấp, hợp tác và tuân thủ Công ước LHQ về Luật Biển.

Biển Đông Trung Hoa


Tại Biển Đông Trung Hoa (East China Sea), ngoài tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Shenkaku/Điếu Ngư Đài, Trung Quốc và Nhật còn tranh chấp ranh giới của các vùng biển.


Trung Quốc đòi hỏi ranh giới thềm lục địa dựa trên địa lý đáy biển[16]. Nguyên tắc của yêu sách này cho Trung Quốc một ranh giới có thể ra tới Rãnh Okinanwa. Mặc dù ngày 11/5/2009 Trung Quốc đã nộp báo cáo sơ khởi cho LHQ về ranh giới ngoài của thềm lục địa, toạ độ của yêu sách của Trung Quốc về thềm lục địa cũng như vùng đặc quyền kinh tế chưa được công bố.


Nhật đòi hỏi rằng vùng đặc quyền kinh tế của Nhật ra tới đường trung tuyến giữa lãnh thổ Nhật (cụ thể là chuỗi đảo Ryuku/Lưu Cầu) và Trung Quốc[17], không phụ thuộc vào địa lý đáy biển.


Hai yêu sách đối kháng này gây ra một vùng chồng lấn của thềm lục địa (và có thể cả vùng đặc quyền kinh tế) mà Trung Quốc đòi hỏi và vùng đặc quyền kinh tế mà Nhật đòi hỏi.

Ngày 18/6/2008, Trung Quốc và Nhật thoả thuận về một vùng khai thác chung[19]. Vùng khai thác chung này không dựa trên đường yêu sách của Trung Quốc mà nằm lân cận đường trung tuyến Nhật-Trung, tức là nằm lân cận đường yêu sách của Nhật. Có thể nói rằng vùng khai thác chung này có nhiều phản ảnh từ lập trường của Nhật hơn phản ảnh từ lập trường của Trung Quốc.

Bài học cho tranh chấp Biển Đông là mặc dù tại Biển Đông Trung Hoa, Trung Quốc đòi hỏi ranh giới thềm lục địa tới sát lãnh thổ không bị tranh chấp của Nhật, gần tương đương với việc Trung Quốc đòi hỏi ranh giới đường 9 đoạn tới sát lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam, Indonesia, Mã Lai, Brunei và Philippines, vùng khai thác chung Nhật-Trung 2008 đã không dựa trên yêu sách của Trung Quốc. Nếu Biển Đông bị khai thác chung dựa trên yêu sách đường 9 đoạn của Trung Quốc thì có lẽ lý do là Việt Nam, Indonesia, Mã Lai, Brunei và Philippines yếu thế hơn Nhật trong đàm phán với Trung Quốc.


Có một điều ngoài phạm vi của bài này nhưng đáng đề cập tới. Đó là:
 

  • Tại Biển Đông Trung Hoa, Trung Quốc đòi hỏi rằng phạm vi thềm lục địa của họ được tính dựa trên địa lý đáy biển,

  • Và Trung Quốc cho rằng cách tính dựa trên địa lý đáy biển được ưu tiên hơn việc Nhật đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế cho các đảo thuộc nhóm Ryuku/Lưu Cầu,

  • Nhưng tại Biển Đông thì Trung Quốc lại phản đối việc Việt Nam và Malaysia báo cáo với LHQ về phạm vi thềm lục địa dựa trên địa lý đáy biển,

  • Và Trung Quốc cho rằng những vùng biển mà Trung Quốc gọi một cách mập mờ là "lân cận" và "liên quan" tới quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa (mà Trung Quốc đòi hỏi) được ưu tiên hơn phạm vi thềm lục địa dựa trên địa lý đáy biển (mà Việt Nam và Mã Lai đòi hỏi).

Điều này nói lên một sự tự mâu thuẫn trong lập trường của Trung Quốc[20].

Kết luận


Trên nguyên tắc, khái niệm "gác tranh chấp, cùng khai thác" nói chung là một khái niệm có thể chấp nhận được. Trên thực tế, Việt Nam và một số nước Đông Nam Á không xa lạ với thật sự gác tranh chấp và khai thác chung một cách công bằng, tôn trọng lẫn nhau.


Tuy vậy quan niệm của Trung Quốc đằng sau khái niệm "gác tranh chấp, cùng khai thác" có một số vấn đề cơ bản.


Để việc gác tranh chấp, cùng khai thác thật sự có tính xây dựng, có thể công bằng và bảo đảm an ninh cho các nước trong tranh chấp, cần có một số điều kiện chính:
 

  • Việc gác tranh chấp phải là sự thật, tức là các nước trong tranh chấp phải ngưng những hành động cương hay nhu nhằm chiếm đoạt chủ quyền, hay củng cố cái mình gọi là chủ quyền.

  • Vùng tranh chấp, tức là vùng khai thác chung trong văn cảnh này, phải được xác định một cách công bằng. Trung Quốc phải từ bỏ yêu sách đường 9 đoạn. Trung Quốc phải công nhận rằng Hoàng Sa là lãnh thổ trong tình trạng tranh chấp chủ quyền và có thể là đối tượng của việc khai thác chung.

Cuối cùng, chúng ta cũng nên nhớ rằng gác tranh chấp, cùng khai thác chỉ là một giải pháp tạm thời. Người Anh có tục ngữ, "Rào giậu tốt tạo ra láng giềng tốt". Giải pháp cơ bản, lâu dài cho tranh chấp lãnh thổ là phân định chủ quyền một cách công bằng, phù hợp với luật quốc tế. Không những thế, phân định chủ quyền một cách công bằng tạo điều kiện tốt cho việc hợp tác, cùng khai thác, cùng phát triển. Vì vậy, các nước trong tranh chấp Biển Đông cần luôn luôn hướng tới việc phân định chủ quyền một cách công bằng.

[1] T. Lam. Hội thảo quốc tế về Biển Đông. Vietnamnet, 25/11/2009. Trên mạng: http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/200911/Hoi-thao-quoc-te-ve-Bien-Dong-880652/

[2] Huỳnh Phan. Giải quyết tranh chấp Biển Đông trong mắt học giả Trung Quốc. Vietnmanet, 07/12/2009. Trên mạng: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2009-12-04-giai-quyet-tranh-chap-bien-dong-trong-mat-hoc-gia-trung-quoc

[3] Ibid.

[4] Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương trả lời phóng viên về việc Việt Nam phản đối Trung Quốc tập trận tại Hoàng Sa. Foreign Ministry Spokesperson Qin Gang's Regular Press Conference on 27 November, 2007. Bộ Ngoại giao Trung Quốc, 28/11/2007. Trên mạng: http://big5.fmprc.gov.cn/gate/big5/tr.china-embassy.org/eng/fyrth/t385091.htm

Q: It was reported that Vietnam protested against China's military exercise in Xisha Islands, regarding it as a "violation" of its "sovereignty". Do you have any comment?

A: It is known to all that China has undeniable sovereignty over the Xisha Islands and its adjacent islets. China and Vietnam have no dispute over this issue. The routine training of the Chinese navy is an ordinary activity within Chinese waters under China's sovereignty. Vietnam's protest is totally groundless.

[5] Xuân Linh. Chờ điều kiện chín muồi giải quyết tranh chấp Biển Đông. Vietnamnet, 6/1/2010. Trên mạng: http://vietnamnet.vn/chinhtri/201001/Cho-dieu-kien-chin-muoi-giai-quyet-tranh-chap-bien-Dong-888092/

[6] Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Set aside dispute and pursue joint development. 17/11/2000. Trên mạng: http://www.fmprc.gov.cn/eng/ziliao/3602/3604/t18023.htm

[7] Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã dẫn:

When China entered into diplomatic relations with the Southeast Asian countries in the 1970s and 1980s, during talks with the leaders of these countries, Deng Xiaoping made the following reasonable proposal for resolving disputes over the Nansha Islands: The Nansha Islands have been an integral part of China's territory since the ancient times. But disputes have occurred over the islands since the 1970s. Considering the fact that China has good relations with the countries concerned, we would like to set aside this issue now and explore later a solution acceptable to both sides. We should avoid military conflict over this and should pursue an approach of joint development.

[8] Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã dẫn:

In June, 1986, Deng said to visiting Filipino Vice President Laurel: "We should leave aside the issue of the Nansha Islands for a while. We should not let this issue stand in the way of China's friendship with the Philippines and with other countries."

[9] Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã dẫn:

Deng Xiaoping once again brought up this idea when he met visiting Filipino President Aquino in April, 1988. Deng said: "In view of the friendly relations between our two countries, we can set aside this issue for the time being and take the approach of pursuing joint development."

[10] Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã dẫn:

In addition to proposing the approach of "setting aside difference and pursuing joint development", Deng Xiaoping also explained China's stand that it has sovereignty over the Nansha Islands. He explicitly pointed out that "the Nansha Islands have always been marked as part of China on the maps of the world. The Nansha Islands belong to China." "We have many evidences. The maps of the world in many countries also prove this." He also said to President Aquino that China is in a most authoritative position to address the issue of the Nansha Islands since they have always been a part of China's territory.

[11] Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã dẫn:

The concept of "setting aside dispute and pursuing joint development" has the following four elements: 1. The sovereignty of the territories concerned belongs to China. 2. When conditions are not ripe to bring about a thorough solution to territorial dispute, discussion on the issue of sovereignty may be postponed so that the dispute is set aside. To set aside dispute does not mean giving up sovereignty. It is just to leave the dispute aside for the time being. 3. The territories under dispute may be developed in a joint way. 4. The purpose of joint development is to enhance mutual understanding through cooperation and create conditions for the eventual resolution of territorial ownership.


[12] Bài viết này không phân tích bãi cạn Scarborough, đối tượng của tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines.

[13] Phương Loan.
Học giả quốc tế phê phán đường lưỡi bò của TQ. Vietnamnet, 30/11/2009. Trên mạng: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2009-11-29-hoc-gia-quoc-te-phe-phan-duong-luoi-bo-cua-tq

[14] Lưu ý rằng tác giả không nói rằng nếu Trung Quốc chấp nhận như thế thì Việt Nam nên hay không nên chấp nhận gác tranh chấp, khai thác chung đối với quần đảo Trường Sa.


[15] Xác định này không phải là xác định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về nước nào, hay vùng biển thuộc các quần đảo này thuộc về nước nào.


[16] Mark J. Valencia.
The East China Sea Dispute: Context, Claims, Issues, and Possible Solutions. Asian Perspective, Vol. 31, No. 1, 2007, trang 127-167

[17] Keun-Gwan Lee.
Continental Shelf Delimitation in the East China Sea. Trung tâm Quốc tế Woodrow Wilson cho các Học giả. Trên mạng: http://www.wilsoncenter.org/topics/docs/Keun-Gwan_Lee_1_.pdf

[18] Đường yêu sách của Nhật và Trung Quốc dựa trên:


Valencia
, đã dẫn.

James Manicom.
China's Claims to an Extended Continental Shelf in the East China Sea: Meaning and Implications. The Jamestown Foundation. China Brief Volume: 9 Issue: 14 9/2009

Reiji Yoshida, Sichini Terada.
Japan, China strike deal on gas fields. Japan Times Online, 19/6/2008. Trên mạng: http://search.japantimes.co.jp/cgi-bin/nn20080619a1.html

[19] Bộ Ngoại giao Trung Quốc.
China and Japan Reach Principled Consensus on the East China Sea Issue. 18/06/2008. Trên mạng: http://www.fmprc.gov.cn/eng/xwfw/s2510/t466632.htm

[20] Đó là chưa kể Hoàng Sa, Trường Sa không phải là của Trung Quốc, và các đảo Hoàng Sa, Trường Sa nhỏ hơn các đảo Ruyky/Lưu Cầu rất nhiều.

Tác giả: Dương Danh Huy

 

____________________________
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
 

Quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối

Quá trình thụ đắc lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa được Việt Nam thực hiện bằng phương thức chiếm hữu thực sự, hoàn toàn hợp pháp. Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh hòa bình vì quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối này.
CUỘC CHIẾN PHÁP LÝ TẠI BIỂN ĐÔNG: Bảo vệ trật tự dựa trên quy tắc tại Biển Đông - Thách thức đầy rẫy và 'mỏ neo' quý giá (Kỳ 1)
Vấn đề xác lập, bảo vệ các quyền hợp pháp của quốc gia trong Biển Đông (phần 3)
Cẩn thận yêu sách chủ quyền lịch sử- bẫy pháp lý Trung Quốc ở Biển Đông (phần 2)
Sách tranh cho các bé: 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'

Hành trình phiêu lưu kỳ thú của chú cún Phong Ba ở đảo Trường Sa đã thu hút nhiều bạn nhỏ và cả ba mẹ đến theo dõi trong buổi ra mắt quyển sách tranh thiếu nhi 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'.
Từ thác Bản Giốc, ải Nam Quan... đến Hoàng Sa, Trường Sa
Giải B Sách Quốc gia: Sách quý về quần đảo Trường Sa
"Bức họa Trường Sa"
 

 

Dự án thông tin về Biển Đông của Vietnam Bussines Consulting
Email: vnsea@mail.ru
Ghi rõ nguồn www.vnsea.net khi phát hành lại thông tin từ website này
Информационный портал VBC об Южно-Китайском море.
Copyright © 2012 Vnsea. Все права защищены.