Khẳng định chủ quyền - cơ sở cho phát triển kinh tế biển (IV)
Wednesday, August 08, 2012 9:18 AM GMT+7
Việt Nam là quốc gia biển. Từ bao đời nay, người dân Việt Nam đã gắn bó, sinh tồn cùng biển. Thời phong kiến xa xưa, các triều đại Việt Nam đã định ra các chế độ quản lý vùng đất, vùng trời, khai thác biển. Năm 1994 nước ta đã trở thành thành viên của Công ước LHQ về Luật Biển 1982, song vẫn chưa xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan để bảo vệ, khai thác biển. Năm 2003 Luật Biên giới quốc gia, rồi năm 2005 Bộ Luật Hàng hải Việt Nam mới được ban hành. Vừa qua, Nhà nước ta đã tiếp tục công bố Luật Biển Việt Nam. Luật Biển Việt Nam ra đời có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quốc gia biển Việt Nam.
Khẳng định rõ chủ quyền lãnh thổ

Với hơn 3200 km đất liền giáp Biển Đông, với nhiều đảo, quần đảo, việc xác định ranh giới, khu vực lãnh thổ, những quy định về bảo tồn, khai thác mặt nước, tài nguyên trên biển và dưới đất sẽ rất quan trọng cho quốc gia biển Việt Nam. Trong 9 quốc gia là Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan, Campuchia và Singapore với 3,5 triệu Km2 Biển Đông, thì Việt Nam là nước có diện tích biển thuộc chủ quyền lớn. Biển Đông là nơi có trữ lượng tài nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt là dầu khí và hải sản. Điều này dễ xảy ra tranh chấp, khó cho việc quản lý. Tuy nhiên, mọi sự phân định, điều chỉnh đã được Liên Hợp Quốc phân định bằng Công ước Luật Biển năm 1982 với 320 điều khoản, 9 phụ lục. Đã có 161 quốc gia và tổ chức quốc tế tham gia Công ước này, trong đó có 7 quốc gia ven Biển Đông: Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singgapore, Brunei.
Luật Biển Việt Nam (7 chương, 55 điều) được xây dựng trên cơ sở các quy định của Công ước Luật Biển 1982, tham khảo các thông lệ quốc tế, trên cơ sở thực tiễn, yêu cầu phát triển kinh tế, an ninh, quốc phòng nước ta. Luật đã khẳng định rõ chủ quyền lãnh thổ trên cơ sở thực tế và theo quy định quốc tế. Phạm vi điều chỉnh của luật nêu rõ: "Luật này quy định về đường cơ sở, nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và các quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển của Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo” (Điều 1). Luật đã khẳng định giá trị tuyệt đối về tính pháp lý, nhất là về mặt chủ quyền, cũng như sự tôn trọng quy định của quốc tế: "1-Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của luật khác về chủ quyền, chế độ pháp lý của vùng biển Việt Nam thì áp dụng quy định của Luật này; 2-Trường hợp quy định của Luật này khác với quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”(Điều 2).

Vùng biển Việt Nam và chế độ pháp lý

Luật Biển Việt Nam đã dành cả chương II, quy định về "Vùng biển Việt Nam”. Trong đó, đã quy định về Xác định đường cơ sở (Điều 8): "Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố...”; Nội thuỷ (Điều 9): "Nội thuỷ là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam”; "Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thuỷ như trên lãnh thổ đất liền”(Điều 10). Điều 11 quy định: "Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam”. Về chế độ pháp lý của lãnh hải (Điều 12): "1-Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982; 2-Tàu thuyền của tất cả các quốc gia được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam. Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền Việt Nam; 3-Việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng hoà bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế, mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên; 4; Các phương tiện bay nước ngoài không được vào vùng trời ở trên lãnh hải Việt Nam, trừ trường hợp được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam hoặc thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên; 5-Nhà nước có chủ quyền đối với mọi hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải Việt Nam”.

Từ quy định của Công ước Luật Biển quốc tế, Luật Biển Việt Nam quy định "Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải” (Điều 13) và Chế độ pháp lý (Điều 14); "Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở” (Điều 15) và Chế độ pháp lý (Điều 16); "Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở, hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500mét” (Điều 17). Về Chế độ pháp lý của thềm lục địa: "1- Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác tài nguyên; 2- Quyền chủ quyền quy định tại Khoản 1 Điều này có tính chất đặc quyền, không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa nếu không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam; 3- Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định việc khoan nhằm bất cứ mục đích nào ở thềm lục địa; 4- Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo quy định của Luật này và các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam; 5- Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam” (Điều 18).

Quy định rõ về các đảo, quần đảo

Luật Biển Việt Nam đã quy định rõ về đảo, quần đảo. Về nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo, quần đảo, Luật nêu rõ: "1-Đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho đời sống kinh tế riêng thì có nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; 2-Đảo đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; 3- Nội thuỷ, lãnh hải , vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo, quần đảo được xác định theo quy định tại các Điều 9, 11, 13, 15, 17 của Luật này và được thể hiện bằng hải đồ, bản kê toạ độ địa lý do Chính phủ công bố (Điều 20); "Nhà nước thực hiện chủ quyền trên đảo, quần đảo của Việt Nam; Chế độ pháp lý đối với vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo, quần đảo được thực hiện theo quy định tại các Điều 10, 12, 14, 16 và 18 của Luật này” (như phần lớn đã viện dẫn trên đây). Và như ngay tại Điều 1 của Luật phạm vi điều chỉnh đã viện dẫn, chủ quyền của Việt Nam, chế độ pháp lý trên biển, các đảo, quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa đã được quy định cụ thể, rõ ràng.

Bảo vệ chủ quyền, trách nhiệm của mọi công dân

Luật Biển Việt Nam được ban hành đã là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển đảo nước ta. Mọi công dân Việt Nam đều phải tuân thủ pháp luật Việt Nam, phải thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình như nguyên tắc của Luật đã quy định: "Các cơ quan, tổ chức và mọi công dân Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và các quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển” (Điều 4).

Luật Biển Việt Nam được xây dựng từ năm 1998, qua hàng chục năm nghiên cứu, với những cơ sở vững chắc, lấy ý kiến của các công dân trong nước và nước ngoài, đã được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 2 thông qua đạt tỷ lệ 99,8% số phiếu. Vừa qua với một loạt sự kiện phát lộ như việc xuất hiện một số các bản đồ cổ của Trung Quốc như "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” thời nhà Thanh thể hiện rõ biên giới Trung Quốc, hay bộ tem của Trung Hoa Dân Quốc in bản đồ Trung Hoa không hề có Hoàng Sa, Trường Sa, hoặc nhiều phát hiện sau đó, càng chứng minh quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa từ lâu đời là của Việt Nam, càng chứng minh tính pháp lý vững chắc của Luật Biển Việt Nam.

Kiên Long
____________________________
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
 

Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài cuối: Việt Nam thể hiện vai trò chủ động và trách nhiệm

Tháng 8/2021, trong bài phát biểu tại phiên thảo luận mở cấp cao trực tuyến của Hội đồng Bảo an LHQ với chủ đề “Tăng cường an ninh biển: Một lĩnh vực hợp tác quốc tế”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đưa ra 3 đề xuất nhằm thống nhất hành động toàn cầu để ứng phó kịp thời và hiệu quả với các thách thức an ninh biển, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định trên biển, trên cơ sở tăng cường hợp tác quốc tế, củng cố lòng tin, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 3: Tạo dựng lòng tin để thúc đẩy COC
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 2: Nền móng thiết lập trật tự quốc tế mới trên biển
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 1: Cột mốc quan trọng của luật pháp quốc tế
Sách tranh cho các bé: 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'

Hành trình phiêu lưu kỳ thú của chú cún Phong Ba ở đảo Trường Sa đã thu hút nhiều bạn nhỏ và cả ba mẹ đến theo dõi trong buổi ra mắt quyển sách tranh thiếu nhi 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'.
Từ thác Bản Giốc, ải Nam Quan... đến Hoàng Sa, Trường Sa
Giải B Sách Quốc gia: Sách quý về quần đảo Trường Sa
"Bức họa Trường Sa"
 

 

Dự án thông tin về Biển Đông của Vietnam Bussines Consulting
Email: vnsea@mail.ru
Ghi rõ nguồn www.vnsea.net khi phát hành lại thông tin từ website này
Информационный портал VBC об Южно-Китайском море.
Copyright © 2012 Vnsea. Все права защищены.