Phải chăng giờ là thời điểm Mỹ cần chống lại “sự nổi dậy” của Trung Quốc ở Biển Đông?
17 Tháng Tám 2018 10:03 SA GMT+7
Nghiencuubiendong.vn - Chế độ quản trị bằng luật pháp quốc tế sẽ đứng vững hay sụp đổ là phụ thuộc vào việc các tàu thuyền dân sự có tự tin hoạt động ở những nơi và theo cách thức họ muốn trong khuôn khổ các quyền lợi hợp pháp quốc tế của mình hay không.

Cách tiếp cận hiện tại của Mỹ đối với việc chống lại sự gây hấn vẫn tiếp diễn từng bước của Trung Quốc ở Biển Đông đã thất bại. Hải quân Mỹ không đạt được những mục tiêu chính trị dài hạn của việc sử dụng các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) nhằm làm thay đổi đáng kể thái độ mang màu sắc chủ nghĩa xét lại và hành vi hung hăng của Trung Quốc trong khu vực hay duy trì sự cai trị bằng luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, thất bại của Mỹ cho đến giờ chưa phải là kết cục cuối cùng. Mặc dù sự bành trướng tai hại của những tiền đồn trên mặt đất và sự hiện diện mang tính đe dọa của Trung Quốc trên Biển Đông giờ đây đã gia tăng đáng kể so với khi Mỹ bắt đầu các FONOP, nhưng vẫn còn thời gian để cứu vãn tình hình trước khi các cộng đồng khu vực và quốc tế hoặc công nhận về mặt chính trị những thành quả phi nghĩa của Trung Quốc, hoặc đầu hàng trước quan niệm theo chủ nghĩa châu lục của nước này về chủ quyền đối với các vùng biển. Việc cứu vãn tình hình đòi hỏi Mỹ phải có một quan điểm mới về bản chất cốt lõi của mối đe dọa, xem xét lại các nỗ lực hiện tại của nước này nhằm nhận thức được tác động của chúng đối với trọng tâm mang tính quyết định, và áp dụng những bài học từ lịch sử không quá xa của chính nước Mỹ vào việc tạo dựng những chiến lược mới và những khái niệm tác chiến có thể được sử dụng để giành thế chủ động và đạt được một cách hiệu quả hơn mục tiêu chính đáng của Mỹ là duy trì quyền tự do trên biển và pháp trị trên phạm vi quốc tế.

Chiến lược gồm nhiều hướng của Trung Quốc nhằm thúc đẩy các mục tiêu mang màu sắc chủ nghĩa xét lại của nước này ở Biển Đông - với nhiều mức độ xung đột khác nhau và trên nhiều lĩnh vực khác nhau - giống với một con bạch tuộc đang tấn công ở chỗ nó kết hợp nhiều tuyến nỗ lực diễn ra đồng thời và độc lập, mà nếu riêng lẻ thì có khả năng bị đánh bại, để gây bối rối và áp đảo bên phòng vệ trước khi họ có thể đưa ra một phản ứng cố kết đối với bên gây hấn một cách chi tiết hay tổng thể. Nhiều người đã chú ý đến những thách thức được đặt ra bởi các nỗ lực bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc thông qua việc cải tạo tự nhiên phần đất trên các cấu trúc địa hình trên biển do Trung Quốc chiếm đóng, và việc nước này theo đuổi ưu thế quân sự cục bộ bằng cách mở rộng phạm vi chống tiếp cận/ngăn chặn xâm nhập khu vực, bằng việc xây dựng các cơ sở không quân, hải quân và tên lửa trên các cấu trúc đảo nhân tạo mới cũng như gia tăng sự hiện diện của các lực lượng hải quân lưu động tinh nhuệ thuộc Hải quân Quân giải phóng nhân dân. Tuy nhiên, về cơ bản, thành tố mang tính quyết định và trọng tâm của cuộc vật lộn hiện đang diễn ra ở Biển Đông là cuộc giao tranh giữa hai hệ thống thẩm quyền pháp lý loại trừ lẫn nhau, đó là chế độ cai trị bằng luật pháp quốc tế hiện tại đối đầu với tư tưởng xét lại mang màu sắc chủ nghĩa châu lục của Trung Quốc.

Một mặt là chế độ hiện hành, bị chi phối bởi các nguyên tắc nền tảng là quyền tự do trên biển và đất liền chi phối biển, như đã được hệ thống hóa trong Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) và phán quyết của Tòa trọng tài trong vụ Philippines kiện Trung Quốc. Theo những văn bản pháp lý này, các khu vực bị tranh chấp ở phía Nam Biển Đông chủ yếu sẽ được phân chia thành các Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines, Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Brunei, với một phần nhỏ của vùng biển quốc tế giữa chúng chạy xuyên qua Vùng nguy hiểm. Đi ngược lại nguyên trạng hợp pháp quốc tế này là tham vọng lãnh thổ mang màu sắc chủ nghĩa xét lại của Trung Quốc và quan niệm của nước này về chủ quyền trên biển, phản ánh ưu thế của Trung Quốc với tư cách một cường quốc châu lục. Với những đòi hỏi về “chủ quyền không thể chối cãi” đối với một vùng rộng lớn của Biển Đông nằm trong phạm vi “Đường 9 đoạn” và những nỗ lực nhằm áp đặt luật pháp trong nước của chính họ đối với các tàu thuyền và máy bay đi qua khu vực rộng lớn đó, Trung Quốc tìm cách phá bỏ nguyên tắc quyền tự do trên biển và nguyên tắc đất liền chi phối biển để áp dụng các nguyên tắc về chủ quyền trên đất liền đối với những vùng biển mà Trung Quốc thèm muốn. Do đó, Trung Quốc không coi Biển Đông là một khu vực chung toàn cầu mà đối với nó, các quốc gia có thể khẳng định quyền kiểm soát ở mức độ hạn chế dựa trên vùng đất gần kề do họ chiếm giữ, mà coi nó là “lãnh thổ xanh” mà nước này có thể một mình khẳng định chủ quyền, không đếm xỉa tới những vùng đất lớn gần đó hay những thực tế địa lý khác.

Trong lĩnh vực luật pháp quốc tế, Trung Quốc đã chọn cách can dự có chọn lọc vào cơ chế được quốc tế công nhận. Nước này phủ nhận vị thế của Tòa trọng tài trong việc đưa ra phán quyết về những vụ việc ở Biển Đông như vụ Philippines kiện Trung Quốc, đồng thời đệ trình những hồ sơ pháp lý nhằm thúc đẩy lập luận của nước này trong các khuôn khổ pháp lý được công nhận. Trung Quốc cũng là một bên tham gia UNCLOS và do đó công nhận khái niệm EEZ 200 hải lý cho chính mình (và quả thực đã khẳng định một cách thái quá quyền cấp phép hoặc từ chối cấp phép cho các tàu thuyền nước ngoài muốn đi qua EEZ của nước này) đồng thời vi phạm quyền về EEZ của các nước láng giềng của họ bằng việc nhấn mạnh “tuyên bố lịch sử” trái pháp luật của nước này về “chủ quyền không thể chối cãi” đối với khu vực nằm trong “Đường 9 đoạn”. Tuy vậy, bất chấp điều được một số nhà quan sát suy luận là sự chấp nhận chí ít là một phần của chế độ cai trị bằng luật pháp quốc tế trên biển, Trung Quốc về cơ bản tìm cách đánh bại cơ chế pháp lý hiện hành bằng cách ép buộc các bên khác công nhận trên thực tế thẩm quyền trái pháp luật của mình, sử dụng lực lượng thực thi pháp luật trên biển với quy mô lớn và sự hiện diện dân sự bán quân sự của mình để quấy rối và hăm dọa dân thường không có vũ trang của các quốc gia láng giềng đang tìm cách thực hiện các quyền của họ theo luật pháp quốc tế để tiến hành các hoạt động kinh tế trong vùng biển quốc tế hoặc trong các EEZ quốc gia của riêng họ.

Mặc dù động lực này thường được mô tả bằng những thuật ngữ gần như ngoại lai - “chiến tranh hỗn hợp”, “sự gây hấn ở vùng xám” - song trên thực tế, so với nhìn nhận ban đầu, thách thức từ phía Trung Quốc quen thuộc hơn nhiều đối với các binh lính, thủy thủ và chính khách Mỹ, đặc biệt là những người có kinh nghiệm trong các cuộc chiến tranh viễn chinh gần đây ở Iraq và Afghanistan. Phía sau sự sắp đặt trên biển của Trung Quốc để ngụy trang, những hành động của nước này trên Biển Đông cấu thành một cuộc nổi dậy, nhằm làm suy yếu thẩm quyền hợp pháp của cơ chế hiện hành (UNCLOS) bằng việc áp đặt thẩm quyền trái pháp luật đối với các thủy thủ và phi công dân sự, cũng như ngư dân địa phương thông qua những lời đe dọa ngấm ngầm và công khai về việc sử dụng vũ lực. Việc người dân địa phương chấp nhận để Trung Quốc tước đoạt các quyền lợi hợp pháp của họ - dù đó là những hành vi xâm phạm EEZ được công nhận của đất nước họ hay những hạn chế đối với quyền tự do hàng hải và hàng không trong vùng biển quốc tế gần với những căn cứ mới được xây dựng của Trung Quốc - qua thời gian sẽ hợp pháp hóa những hành động tước đoạt đó, mà kết quả cuối cùng sẽ là sự sụp đổ về thẩm quyền của trật tự đúng đắn.

Bất chấp sự bành trướng và sức mạnh của mình, việc Chính phủ Trung Quốc coi hệ thống quốc tế dựa trên các quy tắc là một sự áp đặt hà khắc được hình thành trước khi Đảng Cộng sản Trung Quốc chiếm một ghế trên bàn đàm phán ngoại giao, kết hợp với những động lực của các chiến thuật mang tính cưỡng ép các bên khác phải thuận theo quan điểm khác của nước này về sự cai trị khiến Trung Quốc ở Biển Đông trở thành một phe nổi dậy với quy mô nhà nước chống lại trật tự thế giới tự do do Mỹ lãnh đạo.

Một số nhà bình luận, đáng chú ý là Thomas Christensen tại Diễn đàn chiến lược hiện hành năm 2016, đã nói rằng Mỹ chỉ quan tâm đến việc bảo vệ quyền tự do hàng hải về quân sự, chứ không phải về dân sự. Sẽ là sai lầm nếu tiếp nhận quan điểm này như một chính sách chính thức. Chế độ cai trị bằng luật pháp quốc tế sẽ đứng vững hay sụp đổ là phụ thuộc vào việc các tàu thuyền dân sự địa phương có tự tin vào khả năng hoạt động hàng ngày của họ ở những nơi và theo cách thức họ muốn trong khuôn khổ các quyền lợi hợp pháp quốc tế của họ hay không. Vì các tàu thuyền và máy bay dân sự địa phương không có vũ trang hoạt động trong các khu vực bị tranh chấp một cách thường xuyên hơn nhiều so với các tàu chiến của Mỹ, nên chính khả năng và sự sẵn sàng của người dân trong việc xem nhẹ hành vi quấy rối và những sự kiềm chế phi pháp của Trung Quốc đối với hoạt động hàng hải sẽ quyết định cuộc tranh đấu giữa hai chế độ pháp lý đang đối đầu nhau.

Không thể gọi cách tiếp cận hiện tại của Mỹ đối với vấn đề Biển Đông, cụ thể là mô hình FONOP hiện nay của Mỹ, là một chiến lược hay một chiến dịch, vì nó chỉ gồm một loạt hành động rời rạc, định kỳ khẳng định quyền tự do hàng hải và hàng không quân sự của Mỹ, mà hầu như không làm gì để giảm bớt sức ép thực sự từ việc Trung Quốc làm xói mòn pháp trị trên biển dưới hình thức những hành động tước đoạt quyền tự do hàng hải và hàng không dân sự. Việc cử một tàu chiến tới hoạt động trong phạm vi 12 hải lý xung quanh một cấu trúc địa hình bị tranh chấp trên biển mỗi quý một lần là một phương thức hiệu quả để thông báo về mặt pháp lý việc Mỹ tái khẳng định quyền tự do hàng hải quân sự của mình hay không công nhận một tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp đối với một lãnh thổ cụ thể, nhưng những chuyến quá cảnh đó không có hiệu quả trong khuôn khổ rộng lớn hơn, vì chúng vốn mang tính tạm thời. Quan trọng hơn, chúng không có tác động đáng kể tới hành vi của các thủy thủ và phi công dân sự địa phương, nhưng người sẽ một lần nữa phải chịu sự quấy rối của Trung Quốc ngay khi tàu Mỹ rời khỏi khu vực. Như các nhà tuyên truyền Trung Quốc thường xuyên nhắc nhở thế giới bằng những lời khoe khoang sau các FONOP về việc những chiếc khinh hạm có nhiệm vụ hộ tống của Quân giải phóng nhân dân đã xua đuổi các tàu khu trục có hành vi xâm phạm của Mỹ, Mỹ luôn bỏ đi. Vì chính dân thường cuối cùng sẽ là những người quyết định chiến thắng trong cuộc chiến giữa các chế độ pháp lý, nên các FONOP của Mỹ không thực sự công kích chiến lược của Trung Quốc là đe dọa để có được quyền kiểm soát đối với Biển Đông. Kết quả là Trung Quốc dung thứ cho các FONOP (nếu không phải trong luận điệu công khai thì là trong hành động thực tế) vì chúng không có hiệu quả: Các FONOP của Mỹ như được tiến hành hiện nay thiếu sức bền bỉ, và do đó không gây ra mối đe dọa mang tính chiến lược nào.

Theo các sỹ quan cấp cao của Mỹ, các sân bay của Trung Quốc được xây dựng trên các bãi đá được gia cố sẽ là những mục tiêu tương đối sơ hở trong một cuộc giao tranh toàn lực. Nhưng dù giá trị tác chiến của chúng là gì trong một tình huống bất ngờ với cường độ cao, thì trong các kịch bản chưa đến mức chiến tranh, những công trình này và những vũ khí tinh vi được bố trí trên đó vẫn có sức ảnh hưởng đáng kể nhất. Trong những môi trường chưa đến mức phải sử dụng vũ lực này, chúng có thể đe dọa các thủy thủ và phi công dân sự không có vũ trang để họ không đến quá gần những vùng cốt lõi mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền và các trung tâm hậu cần quân sự của nước này ở các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Chừng nào cuộc xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc còn diễn ra dưới ngưỡng một cuộc chiến tranh công khai, thì chừng đó mối đe dọa thực sự đối với Mỹ, các đồng minh của nước này và trật tự quốc tế dựa trên các quy tắc được Mỹ ủng hộ sẽ không đến từ việc Trung Quốc mở rộng sự hiện diện trên biển và mạng lưới chống tiếp cận/ngăn chặn xâm nhập khu vực của nước này, mà đến từ cuộc nổi dậy trên biển, mà trong đó Trung Quốc tìm cách phát triển những điều kiện nhằm lật đổ hệ thống thẩm quyền hiện tại và áp đặt các quy tắc và luật lệ của riêng họ đối với những thủy thủ và phi công đi qua các vùng biển và vùng trời mà nước này thèm muốn.

Để thực sự cạnh tranh với nước cờ nổi dậy của Trung Quốc nhằm giành quyền kiểm soát trên thực tế và có khả năng là quyền kiểm soát hợp pháp trong tương lai, Mỹ phải tư duy và hoạt động như một lực lượng chống nổi dậy ở Biển Đông, sử dụng tầm ảnh hưởng của mình để chống lại cuộc nổi dậy của Trung Quốc thông qua việc bảo vệ sự hiện diện thường xuyên và liên tục hơn nhiều của các tàu thuyền và máy bay dân sự địa phương. Nếu Mỹ có thể bảo vệ thành công các tàu thuyền đó khỏi sự can thiệp của Trung Quốc trong hoạt động của họ ở những khu vực này của Biển Đông, vốn nằm trong phạm vi của luật pháp quốc tế, và nếu Mỹ có thể hợp thức hóa thành công các hoạt động như vậy nhằm tạo ra một nguyên trạng mới, thì Trung Quốc trên thực tế sẽ buộc phải tôn trọng quyền tự do hàng hải dân sự, và nỗ lực của họ để có được chủ quyền hợp pháp theo kiểu trên đất liền đối với Biển Đông sẽ phải hứng một đòn giáng nặng nề.

Một chiến dịch chống nổi dậy trên biển như vậy sẽ không nhất thiết làm thay đổi toàn bộ cán cân quân sự ở Biển Đông, mà sẽ tiếp tục có lợi cho Trung Quốc chỉ vì khoảng cách gần về địa lý của nước này. Thách thức mà các lực lượng thực hiện việc chống nổi dậy phải đối mặt sẽ là việc bảo vệ quyền tự do hàng hải và luật pháp quốc tế từ lập trường yếu thế hơn về quân sự ở địa phương. Ban đầu, điều này có lẽ dường như là trái với lẽ thường, nhưng chừng nào Trung Quốc vẫn chưa sẵn sàng nổ súng để xua đuổi các lực lượng hộ tống của Mỹ và do đó chấp nhận nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh mang tính phá hoại cao chỉ để quấy rối một nhóm tàu dân sự dưới sự bảo vệ của Mỹ, thì chừng đó sự mất cân bằng cục bộ giữa các lực lượng tinh nhuệ tham chiến nhìn chung là không gây ảnh hưởng gì.

Với các phương pháp hoạt động đúng đắn, cam kết dành các nguồn lực đầy đủ nhưng bền vững cho nhiệm vụ này, và ý chí quốc gia cần thiết để duy trì nỗ lực này trong một giai đoạn kéo dài - vì yếu tố cần thiết của tất cả các cuộc chống nổi dậy thành công không phải là quân số, mà là thời điểm - một chiến dịch chống nổi dậy trên biển ở Biển Đông đi kèm với hoạt động ngoại giao mạnh mẽ có thể đem lại chiến thắng cần thiết cho Mỹ và các lực lượng quân đội đồng minh cũng như trật tự quốc tế dựa trên các nguyên tắc mà họ bảo vệ. Nỗ lực này sẽ đòi hỏi, trong số những điều khác, một tiến trình lên kế hoạch liên ngành, linh hoạt và cố kết nhằm phối hợp với các đồng minh; khả năng kết hợp các phương tiện quân sự và chính trị nhằm chuẩn bị cho các phản ứng khác nhau có thể có; và trên hết là giữ vững mục tiêu cho tới khi Trung Quốc nhận ra sự sáng suốt của việc chấp nhận quyền tự do trên biển vốn đã làm lợi rất nhiều cho nước này trong 7 thập kỷ qua và tránh các hành động mang tính đe dọa. Việc này có thể mất nhiều năm, thậm chí là nhiều thập kỷ, song cuộc đấu tranh này sẽ là đáng trân trọng, được tiến hành vì một sự nghiệp có ý nghĩa sống còn đối với lợi ích quốc gia và quốc tế.

Tiến sĩ Patrick M. Cronin là nhà biên tập cao cấp Chương trình Nghiên cứu Châu Á – Thái Bình Dương, Trung tâm An ninh Mỹ Mới (CNAS), nguyên là giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc gia, Đại học Quốc phòng. Hunter Stires là chuyên viên nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử Hàng hải John B. Hattendorf, Học viện Hải chiến Mỹ, là Hội viên Liên kết Chiến lược Biển tại CNAS. Bài viết được đăng trênThe National Interest.

Trần Quang (gt)

____________________________
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
 

Quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối

Quá trình thụ đắc lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa được Việt Nam thực hiện bằng phương thức chiếm hữu thực sự, hoàn toàn hợp pháp. Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh hòa bình vì quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối này.
CUỘC CHIẾN PHÁP LÝ TẠI BIỂN ĐÔNG: Bảo vệ trật tự dựa trên quy tắc tại Biển Đông - Thách thức đầy rẫy và 'mỏ neo' quý giá (Kỳ 1)
Vấn đề xác lập, bảo vệ các quyền hợp pháp của quốc gia trong Biển Đông (phần 3)
Cẩn thận yêu sách chủ quyền lịch sử- bẫy pháp lý Trung Quốc ở Biển Đông (phần 2)
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài cuối: Việt Nam thể hiện vai trò chủ động và trách nhiệm

Tháng 8/2021, trong bài phát biểu tại phiên thảo luận mở cấp cao trực tuyến của Hội đồng Bảo an LHQ với chủ đề “Tăng cường an ninh biển: Một lĩnh vực hợp tác quốc tế”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đưa ra 3 đề xuất nhằm thống nhất hành động toàn cầu để ứng phó kịp thời và hiệu quả với các thách thức an ninh biển, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định trên biển, trên cơ sở tăng cường hợp tác quốc tế, củng cố lòng tin, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 3: Tạo dựng lòng tin để thúc đẩy COC
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 2: Nền móng thiết lập trật tự quốc tế mới trên biển
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 1: Cột mốc quan trọng của luật pháp quốc tế
Sách tranh cho các bé: 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'

Hành trình phiêu lưu kỳ thú của chú cún Phong Ba ở đảo Trường Sa đã thu hút nhiều bạn nhỏ và cả ba mẹ đến theo dõi trong buổi ra mắt quyển sách tranh thiếu nhi 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'.
Từ thác Bản Giốc, ải Nam Quan... đến Hoàng Sa, Trường Sa
Giải B Sách Quốc gia: Sách quý về quần đảo Trường Sa
"Bức họa Trường Sa"
 

 

Dự án thông tin về Biển Đông của Vietnam Bussines Consulting
Email: vnsea@mail.ru
Ghi rõ nguồn www.vnsea.net khi phát hành lại thông tin từ website này
Информационный портал VBC об Южно-Китайском море.
Copyright © 2012 Vnsea. Все права защищены.