Truyền thông Trung Quốc cho biết, Ủy ban Thường vụ đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc, cơ quan lập pháp cao nhất Trung Quốc, thông qua luật Hải cảnh ngày 22/1. Luật này bắt đầu có hiệu lực từ 1/2/2021.
Luật Hải cảnh của Trung Quốc tạo ra nhiều lo ngại cho thế giới.
Theo đó, lực lượng hải cảnh Trung Quốc được phép sử dụng “mọi phương tiện cần thiết” để chặn hoặc tránh các mối đe dọa từ các tàu nước ngoài. Luật ghi rõ các điều kiện nên sử dụng các loại vũ khí nào, chẳng hạn vũ khí cầm tay, vũ khí gắn trên tàu, hoặc vũ khí từ máy bay, có thể được sử dụng.
Trung Quốc đã lấy ý kiến về dự thảo luật này từ cuối năm 2020. Tuy nhiên, thời điểm công bố luật này chỉ cách 2 ngày sau khi ông Trump mãn nhiệm và ông Biden nhậm chức Tổng thống Mỹ.
Việc Bắc Kinh công bố luật Hải cảnh vào thời điểm này thể hiện các vấn đề sau:
Thứ nhất, Trung Quốc muốn tận dụng thời cơ. Nếu như khi ông Trump còn giữ ghế Tổng thống thì Trung Quốc không dại gì “chọc giận” ông Trump, vốn là người luôn ra quyết định rất bất ngờ và khó lường hậu quả.
Đối với Tổng thống Biden, ông khó có thể quan tâm đến các chính sách đối ngoại khi chưa ổn định được các vấn đề trong nước như đại dịch Covid-19, khủng hoảng kinh tế và các vấn đề chính trị hậu Trump. Đây chính là thời cơ để Trung Quốc có thể tận dụng mà không sợ bị Mỹ - đối thủ lớn nhất của Trung Quốc phản ứng.
Thứ hai, đây cũng có thể coi là “sự răn đe” với các quốc gia có các tranh chấp biển với Trung Quốc. Trung Quốc đang tranh chấp biển với Nhật Bản ở biển Hoa Đông và với nhiều nước Đông Nam Á ở Biển Đông.
Thứ ba, đây cũng là hành động “thăm dò” phản ứng của Hoa Kỳ với tân chính quyền Hoa Kỳ xem khả năng quan tâm và can dự đối với Biển Đông đến mức độ nào.
Mối đe dọa từ lực lượng hải cảnh
Luật Hải cảnh của Trung Quốc tạo ra nhiều lo ngại cho thế giới. Điều 19 của luật này trao quyền cho lực lượng hải cảnh Trung Quốc, bao gồm cả việc sử dụng vũ khí, khi chủ quyền quốc gia, quyền chủ quyền và quyền tài phán bị các tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài xâm phạm bất hợp pháp trên biển hoặc đối mặt với nguy cơ sắp bị xâm phạm bất hợp pháp.
Vấn đề ở chỗ Trung Quốc luôn yêu sách trái phép các vùng biển rộng lớn là biển thuộc chủ quyền quốc gia của mình, trong đó có Biển Đông, Hoa Đông.
Luật hải cảnh Trung Quốc cũng cho phép lực lượng hải cảnh đưa các đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng trái phép trên Biển Đông (trong đó có 7 thực thể tại quần đảo Trường Sa và một số thực thể tại quần đảo Hoàng Sa) vào trong phạm vi bảo vệ của lực lượng này, cho phép họ tham gia thực thi pháp luật trên tất cả các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và cả trên không.
Thậm chí, dự luật còn cho phép hải cảnh Trung Quốc dỡ bỏ các công trình do nước ngoài xây dựng tại những vùng biển mà họ cho là thuộc "quyền quản lý" của lực lượng này. Ngoài ra, hải cảnh còn được tịch thu và tiêu hủy tàu nước ngoài nếu họ "xâm phạm trái phép vùng biển" của Trung Quốc.
Chiếc tàu mới nhất, CCG 3901 (viết tắt của Hải cảnh Trung Quốc), bắt đầu hoạt động vào năm 2017.
Từ trước đến nay, lực lượng hải cảnh Trung Quốc đã nhiều lần xua đuổi tàu cá nước khác, đôi khi dẫn đến các vụ va chạm, đâm chìm tàu đối phương. Với luật mới thông qua, người ta lo ngại rằng Trung Quốc đang khiến Biển Đông trở thành nơi bùng phát các vụ đụng độ.
Trung Quốc từ nhiều năm nay đã yêu sách chủ quyền và ngày càng quyết liệt trong việc xác lập chủ quyền đối với hầu hết diện tích Biển Đông.
Phô trương sức mạnh
Trong suốt thời gian qua, nhiều vùng biển khu vực bị khuấy động bởi hoạt động của các đội tàu từ Trung Quốc. Ở biển Hoa Đông, tàu Trung Quốc đang thăm dò vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư do Nhật Bản nắm giữ. Ở Biển Đông, Trung Quốc biến các thực thể mà họ chiếm giữ trái phép tại Trường Sa và Hoàng Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam) thành căn cứ quân sự kiên cố.
Mỹ và các đồng minh lần lượt cử các đội tàu chiến ngày càng lớn đến vùng biển này để thách thức các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc. Hải quân Trung Quốc, lực lượng hải quân lớn nhất thế giới, cũng đang hoạt động tích cực hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, lực lượng hải cảnh nước này ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các tranh chấp biển.
Năm 2013, Trung Quốc hợp nhất một số cơ quan thực thi pháp luật hàng hải dân sự thành một cơ quan mới, gọi là Cục Hải cảnh. 5 năm sau, lực lượng này được đặt dưới quyền kiểm soát của Cảnh sát vũ trang nhân dân, một lực lượng bán quân sự báo cáo cho Quân ủy TƯ - cơ quan quân sự tối cao của Trung Quốc.
Trên thực tế, việc này đã biến hải cảnh thành một nhánh của lực lượng vũ trang Trung Quốc.
Hiện tại, hải cảnh Trung Quốc có hơn 500 tàu, đứng đầu về tiềm lực trong khu vực. Nhật Bản đứng thứ hai, với 373 tàu. Philippines 86 tàu và Indonesia chỉ 41 tàu.
Các tàu của Trung Quốc cũng mạnh hơn. Một thập kỷ trước, Trung Quốc chỉ có 10 tàu, có lượng giãn nước ít nhất 1.500 tấn (tương đương với quy mô của một tàu chiến nhỏ). Nhưng đến năm 2015, Trung Quốc đã có 51 tàu như vậy. Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế (tổ chức tư vấn có trụ sở tại London) cho biết, hiện tại, Trung Quốc đã có 87 tàu.
Nhiều tàu hải cảnh Trung Quốc giờ đây đã vượt xa các tàu chiến lớn nhất trong các lực lượng hải quân của khu vực. Ví dụ tàu lớp Zhao Tou (Chiêu Đầu) của cảnh sát biển Trung Quốc là một tàu có trọng lượng 12.000 tấn. Boong tàu rộng, chứa được 2 trực thăng, 1 khẩu pháo 76mm và 1 kho vũ khí.
Trung Quốc có 2 chiếc tàu như vậy. Một tàu được triển khai trên bờ biển phía đông. Chiếc tàu mới nhất, CCG 3901 (viết tắt của “Hải cảnh Trung Quốc”), bắt đầu hoạt động vào năm 2017 trong chuyến tuần tra đầu tiên trên Biển Đông, đây là khu vực hoạt động của tàu này. Sự xuất hiện của con tàu khổng lồ này nhằm một mục đích: Trung Quốc hậu thuẫn các yêu sách chủ quyền của nước này trong khu vực trên bằng “khối thép” như vậy.
Trung Quốc sử dụng hải cảnh không chỉ để thực thi luật hàng hải thông thường mà còn để phô trương sức mạnh. Năm 2019, khi Trung Quốc đưa tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 đến vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, họ đã điều một đội tàu hải cảnh theo hỗ trợ, trong đó có tàu CCG 3901.
Hồi tháng 4/2020, khi tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 tới EEZ của Malaysia, tàu CCG 3901 lại được cử đi kèm.
Một báo cáo do Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và cuốc tế ở Washington công bố năm 2019 cho biết, 14 tàu hải cảnh Trung Quốc tuần tra các thực thể có tranh chấp ở Biển Đông đã phát sóng vị trí của mình trên Hệ thống nhận dạng tự động, một mạng lưới theo dõi tàu quốc tế, để chứng tỏ “sự hiện diện thường xuyên, rõ ràng của Trung Quốc”.
Việc hải cảnh Trung Quốc gần như liên tục hiện diện trên Biển Đông là nhờ nguồn cung ứng mà lực lượng này nhận được từ các tiền đồn mới xây dựng của Trung Quốc trong khu vực.
Tàu hải cảnh Trung Quốc cũng thường xuyên tuần tra trong vùng lân cận của các đảo trong vùng biển Hoa Đông và thường xuyên ra vào khu vực lãnh hải 12 hải lý xung quanh quần đảo Senkaku, tạo nên những lần rượt đuổi với các tàu Nhật Bản.
Trong khi đó, không quân Trung Quốc cũng hiện diện quần đảo Senkaku và các hòn đảo phía Nam của Nhật khiến lực lượng phòng vệ trên không Nhật phải thường xuyên xuất kích ngăn chặn.
Phần 2: Luật hải cảnh Trung Quốc làm tăng nguy cơ đụng độ ở Biển Đông
Theo vietnamnet.vn