TS Trần Công Trục trả lời: Những tranh chấp xảy ra trên biển gồm có nhiều loại khác nhau. Công ước Luật Biển năm 1982 không phải là cơ sở pháp lý duy nhất để xử lý, giải quyết tất cả mọi tranh chấp.
|
Công ước Luật Biển năm 1982 không phải là cơ sở pháp lý duy nhất để xử lý, giải quyết tất cả mọi tranh chấp |
Tại phần XV, từ Điều 279 đến Điều 299, của Công ước Luật Biển năm 1982 và các Phụ lục có liên quan, đã quy định các nội dung cơ bản như:
- Nguyên tắc giải quyết tranh chấp;
- Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp;
- Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp;
- Trình tự thủ tục hòa giải (Phụ lục V);
- Tổ chức, thẩm quyền và thủ tục tố tụng của Tòa án quốc tế về Luật Biển (Phụ lục VI);
- Thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài (Phụ lục VII);
- Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án Trọng tài đặc biệt (Phụ lục VIII)…
Các quy định nói trên của Công ước Luật Biển năm 1982 là một bước tiến quan trọng của Luật quốc tế nói chung và Luật Biển nói riêng, là thành quả đấu tranh của mọi quốc gia, nhất là các quốc gia chậm phát triển và đang phát triển, các quốc gia không có biển và bất lợi về mặt địa lý…Nó phản ánh đúng xu thế của thời đại hiện đại và văn minh, trong đó mọi mối quan hệ phải được xử lý bằng pháp luật.
Nguyên tắc nền tảng được dùng làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp theo quy định của Công ước Luật Biển 1982 là: Các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp trong việc giải thích hay áp dụng Công ước bằng các biện pháp hòa bình theo đúng Điều 2, Khoản 3 của Hiến chương LHQ, Điều 33, Khoản 1 của Hiến chương.
Tại Phụ lục V của Công ước Luật Biển 1982, đã trù định việc thành lập một Uỷ ban hoà giải có chức năng “nghe ý kiến của các bên, xem xét các yêu sách và các ý kiến phản bác của họ và đưa ra có khuyến nghị cho các bên liên quan với mong muốn đạt được một sự hoà giải” ( Điều 6, Phụ lục V).
Các bên tranh chấp có thể tuyên bố bằng văn bản chấp nhận quyền tài phán của một trong các cơ quan tài phán sau: Tòaquốc tế về Luật Biển, Toà án quốc tế, Tòa trọng tài thông thường hoặc Tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo Phụ lục VIII dành cho các loại tranh chấp đã được định rõ trong Phụ lục này.
Theo quy định tại Điều 296, Công ước Luật Biển 1982, thì các phán quyết của Tòa có thẩm quyền là có tính chất tối hậu (chung thẩm), các bên tranh chấp liên quan phải tuân thủ. Các quy định về giải quyết tranh chấp của Công ước yêu cầu các thành viên của Công ước phải chấp hành, không được bảo lưu. Tuy nhiên các quốc gia thành viên có quyền lựa chọn cách thức riêng để giải quyết tranh chấp, có quyền lựa chọn phành phần của Toà án…
Cần lưu ý rằng, các quy định nói trên chỉ áp dụng cho những tranh chấp có liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước Luật Biển năm 1982. Các loại tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, về phân định biên giới, ranh giới biển, thềm lục địa, phân chia lợi ích kinh tế, tài nguyên biển muốn được các cơ quan tài phán quốc tế xét xử thì đều phái có thoả thuận bằng văn bản của các bên liên quan.
Vụ Philippines kiện Trung Quốc (TQ) áp dụng và giải thích sai Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) ở Biển Đông hầu như đều nhận được sự ủng hộ và đánh giá cao của nhiều nước lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Ấn Độ, các học giả và luật gia quốc tế. Hiệu quả của vụ kiện này là Tòa án Quốc tế về Luật Biển đã thành lập Hội đồng Trọng tài 5 thành viên và khởi động phiên đầu tiên hôm 11/07. Hiện tại Philippines vẫn tiếp tục kiên trì không thay đổi lựa chọn này bất chấp việc TQ tìm mọi cách vận động, cô lập Philippines và ngăn chặn vụ kiện.
Theo đánh giá của dư luận thì đó là việc làm văn minh, đúng luật, hoàn toàn không có nghĩa là làm phức tạp vấn đề hay quốc tế hóa vấn đề. Ngược lại chính việc thông qua cơ quan tài phán có thẩm quyền sẽ giúp cho vấn đề được giải quyết một cách sòng phẳng và đơn giản hơn nhiều.
Hồng Chuyên
Theo Infornet