Biển Đông đang thực sự trở thành không gian sinh tồn của Việt Nam. Năm 2005, kinh tế biển chiếm 22%, và theo dự báo, đến năm 2020, kinh tế biển sẽ chiếm hơn 50% GDP của cả nước. Vì thế, việc tăng cường đầu tư cho biển đảo không chỉ có ý nghĩa an ninh, quốc phòng trong bối cảnh tranh chấp Biển Đông đang có những diễn biến phức tạp, mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển kinh tế.
Nhưng nhìn vào mức đầu tư cho biển đảo hiện thời, thấy rằng: mức độ đầu tư quá thấp so với những gì mà biển đảo đóng góp vào tổng GDP của cả nước.
Theo Nghị quyết số 38/2009/QH12 về phân bổ ngân sách trung ương năm 2010 [1], trong Tổng số chi cân đối ngân sách Trung ương 370.436 tỷ đồng thì chi cho Chương trình biển Đông, hải đảo, cảnh sát biển chỉ chiếm 0.46% (1708 tỷ đồng).
Tàu thuyền Việt Nam ở khu vực ngư trường Lý Sơn.
|
So với chi Đầu tư xây dựng cơ bản 64.100 tỷ đồng, chi cho An ninh 20.500 tỷ đồng, chi Quản lý hành chính 23.700 tỷ đồng thì mức đầu tư này là quá ít, đặc biệt trong tương quan so sánh về mức đóng góp của kinh tế biển cho tổng GDP của cả nước (dự kiến hơn 50% GDP năm 2020) và mức độ quan trọng về an ninh - quốc phòng của Biển Đông, hải đảo đối với an ninh-quốc phòng chung của cả nước.
Do có sự khác nhau về đặc thù kinh tế biển và kinh tế trên đất liền, không thể có sự tương ứng trong tỷ lệ đầu tư cho hai lĩnh vực này. Chương trình Biển Đông, hải đảo, cảnh sát biển có thể cũng không phải là địa chỉ duy nhất đón nhận đầu tư cho biển đảo. Tuy nhiên, với mức độ đóng góp chủ lực vào tổng GDP của cả nước, các chương trình biển đảo xứng đáng được đầu tư nhiều hơn nữa.
Nếu so sánh với một số danh mục hoặc chủ trương đầu tư đã được Quốc hội thông qua như: chủ trương xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân với tổng công suất mỗi nhà máy khoảng 2000MW [2], thì tổng mức đầu tư dao động trong khoảng 10.4-12 tỷ đô-la, gấp 110-130 lần đầu tư cho chương trình biển đảo năm 2010. Nếu mở rộng qui mô lên 8000MW thì mức đầu tư lên đến 38-40 tỷ USD, gấp 400-420 lần mức đầu tư cho chương trình biển đảo năm 2010.
Đầu tư cho biển đảo cũng để giữ gìn một Việt Nam trọn vẹn.
|
Đó là chưa kể các đại dự án khác như đường Hồ Chí Minh (15.468 tỉ đồng vào cuối năm 2004 cho giai đoạn 1: 200-2005 và dự tính 18.168 tỉ đồng cho giai đoạn 2) [3], dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, dự án tàu điện ngầm ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, v.v. Riêng chương trình mía đường đến giữa năm 2006 đã nợ đọng 5000 tỉ đồng [4].
Dù chưa ai tính cụ thể đóng góp của các dự án này vào tổng GDP của đất nước, nhưng chắc chắn tỷ lệ đóng góp này sẽ nhỏ hơn nhiều so với mức dự đoán 50% của kinh tế biển vào năm 2020 rất nhiều lần. Như thế đủ thấy sự bất hợp lý, và có phần bất công, trong cơ cấu đầu tư của đất nước.
Trong số các hoạt động kinh tế trên biển, đánh bắt hải sản chiếm tỷ lệ tương đối quan trọng và có ý nghĩa không chỉ về mặt kinh tế mà còn về chủ quyền biển đảo của đất nước.
Không có gì khẳng định chủ quyền chắc chắn bằng việc những đoàn tàu đánh bắt cá của ngư dân tự do ra khơi. Vì thế, ngư dân, ngoài hoạt động mang tính ngành nghề đặc trưng của mình, còn là lực lượng tuyến đầu trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo, nhất là trong bối cảnh đang có những tranh chấp phức tạp trên Biển Đông. Nhưng rất tiếc, đầu tư cho ngư dân hầu như không đáng kể.
Thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp ngư dân trắng tay, thậm chí bị tù đày, vì bị cáo buộc đánh bắt ở vùng biển của nước ngoài, nhưng trên thực tế chỉ là vu cáo.
Nếu được trang bị máy định vị hoặc có hỗ trợ kĩ thuật đồng bộ từ đất liền, những cáo buộc như vậy có thể tránh được phần nào vì khi đó ngư dân hoàn toàn làm chủ hải trình của mình, và có bằng chứng để chứng minh việc mình đang hoạt động trong lãnh hải Việt Nam khi xảy ra cáo buộc.
Việc đầu tư cho ngư dân và tăng cường hỗ trợ hoạt động của ngư dân trên biển, đảm bảo an toàn cho họ khi đánh bắt trên vùng biển của mình, vì thế không chỉ có ý nghĩa phát triển kinh tế, mà còn có ý nghĩa an ninh, quốc phòng trên biển - không gian sinh tồn của Việt Nam trong thời gian tới.
Ngoài việc tăng cường cho các hoạt động trên biển, cũng cần tăng cường đầu tư cho xây dựng và hỗ trợ đời sống trên đảo, đặc biệt là các đảo có dân sinh sống. Vì chính họ chứ không phải ai khác, là những người đứng ở tuyến đầu của việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước. Họ là một phần của Việt Nam, là minh chứng sống động chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam trong các cuộc tranh chấp trên trường quốc tế, vì thế cần được đầu tư đúng mức, nhất là với các em nhỏ, những thế hệ mới sinh ra trên đảo, giảm thiểu sự thiệt thòi của các em vì thiếu giáo viên và điều kiện học tập.
Đã đến lúc phải nhận thức lại việc đầu tư cho biển đảo, sao cho xứng đáng với sự đóng góp của kinh tế biển vào tổng GPD, và ý nghĩa an ninh, quốc phòng của đất nước để khắc phục một bất hợp lý hiển nhiên: kinh tế biển đang và sẽ là thành phần chủ lực đóng góp vào tổng mức GDP của đất nước, nhưng chúng ta đầu tư cho biển đảo quá ít.
(Bài viết thể hiện góc nhìn riêng của tác giả)