Máy bay ném bom B-52 và hai chiến đấu cơ F/A-18 cùng hàng không mẫu hạm USS Nimitz trên Thái Bình Dương
Trong một bài bình luận trên Đài Tiếng nói nước Nga mới đây, ông Kashin cho rằng: “Nhiều khả năng, đến năm 2020, sau khi hoàn tất chương trình hiện nay về cải cách các lực lượng vũ trang và tái vũ trang quân đội, Trung Quốc có thể đánh bại các đồng minh quân sự của Mỹ và các lực lượng của Mỹ ở Đông Thái Bình Dương trong một cuộc xung đột hải quân cục bộ, qua đó sẽ phá vỡ hoặc làm gián đoạn việc điều động các lực lượng của Mỹ từ các nơi trên thế giới vào khu vực này”.
Thậm chí, Bắc Kinh có thể có khả năng đạt được các mục tiêu chính trị ngay cả trước khi Mỹ tập trung được các lực lượng cần thiết vào khu vực này để thực hiện một cuộc phản công toàn diện.
Theo chuyên gia Kashin, khái niệm “Không-hải chiến” được các chuyên gia quân sự Mỹ xây dựng và phát triển nhằm chống lại một cách có hiệu quả các nỗ lực phá vỡ việc triển khai, mở rộng các lực lượng của Mỹ tại các khu vực lân cận của những quốc gia như Trung Quốc và Iran.
Về mặt khái niệm, “Không-hải chiến” quy định 3 hướng hành động chính: Tiêu diệt tiềm lực của đối phương trong lĩnh vực quản lý; kiểm tra và thăm dò, phá hủy các phương tiện mà đối phương sử dụng để cô lập vùng chiến sự và tiêu diệt các lực lượng xung kích của đối phương.
Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ nhiều năm qua, Trung Quốc đã xây dựng, rèn luyện lực lượng vũ trang của mình trên cơ sở chính phương án hành động này của đối phương. Về phần mình, chiến lược của Bắc Kinh dựa trên sự tác động quy mô lớn đến các hệ thống thăm dò và quản lý của đối phương thông qua các phương tiện đấu tranh vô tuyến điện tử (EW), tấn công mạng và sử dụng vũ khí chống vệ tinh.
“Trung Quốc sẽ có thể khởi động một cuộc tấn công phi hạt nhân với độ chính xác cao vào các cơ sở hạ tầng giao thông và quân sự trong khu vực do Mỹ đang sử dụng và bằng cách đó, sẽ làm gián đoạn đáng kể tốc độ gia tăng các lực lượng của Mỹ tại vùng chiến sự”, ông Kashin nói.
Trong khi đó, triệt tiêu những khả năng của Trung Quốc nhằm đảm bảo cho việc triển khai chiến lược cách ly vùng chiến sự có thể phải đòi hỏi một nguồn lực lớn. Và quan trọng hơn nữa là đòi hỏi phải có thời gian, vì Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều để có được các phương tiện phòng không hiện đại.
Việc Trung Quốc sở hữu một lượng lớn các tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình phi hạt nhân với độ chính xác cao sẽ khiến các lực lượng không quân và hải quân Mỹ bị chuyển hướng sang thực hiện nhiệm vụ đảm bảo phòng thủ chống tên lửa và tiêu diệt các tổ hợp tên lửa di động.
Ở châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ hiện chỉ có hai đồng minh quân sự mạnh là Hàn Quốc và Nhật Bản. Tuy nhiên, các lực lượng vũ trang của Hàn Quốc nói chung chỉ tập trung vào việc giải quyết nhiệm vụ bảo vệ đất nước trước khả năng tấn công của CHDCND Triều Tiên và khó có thể hỗ trợ đáng kể cho các nước đồng minh.
Các lực lượng tự vệ của Nhật Bản, mặc dù được trang bị rất tốt, song lại không phải là một lực lượng lớn, còn khả năng tiến hành các hoạt động tấn công lại bị hạn chế.
Đài Loan mặc dù có lực lượng vũ trang đáng kể, song lại “cực kỳ dễ bị tổn thương” khi bị tấn công từ đất liền. Trong trường hợp xảy ra xung đột Trung - Mỹ mà không đụng chạm trực tiếp đến hòn đảo này thì việc sử dụng tiềm lực quân sự của Đài Loan có thể sẽ gặp khó vì các lý do chính trị.
Philippines mặc dù có lãnh thổ và dân số đáng kể, song tiềm lực quân sự lại thấp và Mỹ khó có thể trông chờ vào sự hỗ trợ đồng minh Đông Nam Á.
Còn các đồng minh quân sự mạnh nhất của Mỹ ở châu Âu sẽ khó có khả năng đoái hoài, hay giúp đỡ gì Washington ở khu vực này.
“Mỹ có thể chỉ đơn giản là phải chấp nhận thất bại”, ông Kashin nói.
Bên cạnh đó, chuyên gia Nga khẳng định, việc bảo vệ lợi ích của Mỹ ở Đông Á sẽ không thể đạt được nếu Washington không tăng cường hiện diện thường trực một lực lượng vũ trang lớn, đặc biệt là lục quân, ở phía tây Thái Bình Dương. Dù rằng, trong điều kiện cắt giảm nguồn ngân sách, việc này sẽ khiến Mỹ càng khó khăn hơn nữa để đảm bảo sự hiện diện quân sự ở các khu vực khác trên thế giới như Trung Đông.
Minh Châu
Theo Petrotimes