Biên cương nơi anh ngã xuống - Kỳ 3: Những kỹ sư cầm súng nơi Tĩnh Túc
Wednesday, July 30, 2014 6:36 AM GMT+7
Trận chiến chống quân Trung Quốc tại mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) đã qua hơn 35 năm, nhưng những người thân, đồng đội, mỗi lần nhắc đến nước mắt lại cứ trào ra…

Biên cương nơi anh ngã xuống – Kỳ 3: Những kỹ sư cầm súng nơi Tĩnh Túc 1
Bà Hoàng Thị Thể, vợ liệt sĩ Chu Văn Thoát xúc động bên ngôi mộ chồng

Những đêm gần cuối tháng 07/2014, nghĩa trang mỏ thiếc Tĩnh Túc, huyện Nguyên Bình (Cao Bằng) lung linh với hàng trăm ngọn nến, soi sáng cả một vùng rừng núi âm u.

Đêm cầu siêu các anh linh liệt sĩ, mặc cho mưa bay, mặc cho gió thổi, một người đàn ông tuổi trạc ngũ tuần trầm ngâm ngồi bên những ngôi mộ tinh tươm mới xây. Tiếng ông khấn rì rầm lẫn vào tiếng gió. Thi thoảng ông đưa tay gạt những giọt nước mắt lăn trên má. Nước mắt nhớ thương những đồng đội hơn 35 năm không còn gặp lại.

Ông là Hoàng Quốc Bình, người đồng đội duy nhất có mặt tại đây để mừng cho đồng đội về “nhà mới”. Và trận chiến ngày 20/02/1979 cứ hiện về trước mắt ông, cứ như mới hôm qua.

Quyết chiến giữ mỏ

Ngày ấy, các anh Nguyễn Văn Hoằng (quê Hà Nam Ninh), anh Dương Viết Lành (Quảng Bình), Nguyễn Văn Thành (Bắc Ninh), Phạm Văn Luân (Ninh Bình)… đều là những kỹ sư trẻ tuổi ngoài 20, vừa được đi đào tạo ở nước ngoài về. Theo tiếng gọi của của Tổ quốc, các anh xung phong lên công tác tại mỏ thiếc Tĩnh Túc. 

 
 

7 giờ 30 phút sáng, quân địch tiến đánh điểm chốt của ta trên quốc lộ 34. Trung đội tự vệ đã chiến đấu kiên cường, tiêu diệt tại chỗ và làm bị thương 80 tên địch. Chúng tôi đã bảo vệ được cây cầu Tà Sa, chặn đứng không để quân Trung Quốc tiến vào huyện Nguyên Bình và mỏ thiếc Tĩnh Túc phá hoại. Nhưng cũng trong trận đánh ác liệt đó, tôi đã mất đi 15 đồng đội

Cựu chiến binh Hoàng Quốc Bình

 
 

“Khi hay tin quân Trung Quốc tràn sang xâm chiếm đất nước, trong đó có tỉnh Cao Bằng, ngày 17/02/1979, chúng tôi là những thanh niên được đơn vị triệu tập vào trung đội tự vệ mỏ nhận nhiệm vụ chặn đánh địch.

Chiều 18/02, cả đội được lệnh di chuyển xuống nhà máy thủy điện Tà Sa. Ghé qua huyện đội Nguyên Bình chúng tôi được trang bị thêm vũ khí. Thú thật, có người trong chúng tôi lúc đó chỉ quen lái máy xúc, máy ủi, chứ chưa bao giờ cầm súng, cầm lựu đạn”, ông Bình nhớ lại.

Mờ sáng 19/02, cùng với hai đồng đội, ông Bình được cử đi trinh sát. Phát hiện một toán quân mặc quân phục xanh giống hệt bộ đội Việt Nam, chỉ khác ngôi sao 5 cánh trên mũ không có khuôn viền tròn ở ngoài, đoán là địch, đội trinh sát chạy về cấp báo.

“Xét về tương quan lực lượng, mình yếu hơn địch rất nhiều. Để bảo toàn lực lượng, chúng tôi quyết chống trả đến cùng. 7 giờ 30 phút sáng, quân địch tiến đánh điểm chốt của ta trên quốc lộ 34. Trung đội tự vệ đã chiến đấu kiên cường, tiêu diệt tại chỗ và làm bị thương 80 tên địch. Chúng tôi đã bảo vệ được cây cầu Tà Sa, chặn đứng không để quân Trung Quốc tiến vào huyện Nguyên Bình và mỏ thiếc Tĩnh Túc phá hoại. Nhưng cũng trong trận đánh ác liệt đó, tôi đã mất đi 15 đồng đội”, ông Bình kể. 

Nỗi đau người ở lại

Theo lời ông Bình, đa số anh em trong đội tự vệ từ dưới xuôi lên, chưa lập gia đình nên được phân công ở tập thể cùng nhau. Người đến từ Hà Bắc, Hà Nam Ninh, hay Hải Hưng… nhưng sống với nhau như anh em, chẳng so đo, so bì.

Tuổi đôi mươi, tương lai của những anh kỹ sư, công nhân đang rạng ngời ở phía trước nhưng tất cả đều bị quân Trung Quốc xâm lược cướp mất, từ những ước mơ đến hạnh phúc nơi quê nhà.

Dẫn chúng tôi đến từng ngôi mộ, ông Bình đau đớn kể: “Đây là anh Dương Viết Lành. Khi anh ra đi để lại người vợ trẻ đang mang thai. Vì quá đau buồn trước cái chết của chồng, sức khỏe suy sụp, sau khi sinh, chị cũng đi theo anh mãi mãi. Đứa con bé bỏng tội nghiệp của anh, sau đó được ông bà dưới quê đón về nuôi”.

“Và còn nữa, anh Phạm Vũ Luân, người trong lao động sản xuất vô cùng tích cực. Trong tình cảm thì hết chê. Chính anh là người chỉ bảo chúng tôi cầm súng. Còn anh Nguyễn Văn Hoằng, chúng tôi hoàn toàn khâm phục anh. Nếu anh còn sống, có thể anh đã là lãnh đạo mỏ hoặc là kỹ sư giỏi đầu ngành”, ông Bình kể tiếp.
 

 
 
“Đây là anh Nguyễn Đức Hùng sinh năm 1956, quê Hà Bắc, cao to cao đẹp trai. Anh nằm trong số anh em vừa đi học nước ngoài về. Nếu không có cuộc chiến, một tháng sau anh sẽ tổ chức đám cưới. Tôi có chút hoa tay, được anh gửi gắm vẽ và viết thiệp mời. Vậy mà, thiệp cưới viết dang dở, chưa kịp gửi đi, anh đã hy sinh”
Cựu chiến binh Hoàng Quốc Bình rơm rớm nước mắt kể.

Với những người đã có gia đình, sự thiếu vắng người chồng, người cha,  thiếu đi trụ cột, cuộc sống vốn đã khó khăn, lại càng trở nên cơ cực.

Bà Hoàng Thị Thể, vợ liệt sĩ Chu Văn Thoát, ngậm ngùi: “Ông ấy người Trùng Khánh, mồ côi cha mẹ từ bé. Cả hai đều là công nhân mỏ, gặp nhau nên duyên vợ chồng. Khi nhận được lệnh điều động, ông ấy vội vã ra đi, chưa kịp ăn sáng và nhắn nhủ vợ con điều gì. Còn 4 mẹ con gồng gánh đi sơ tán. Một tháng sau trở về, chỉ biết ôm nấm mồ mà khóc. Một mình nuôi 3 con nhỏ, đứa lớn 13, đứa nhỏ 7 tuổi, đồng lương công nhân còm cõi không đủ sống. Ngày ngày tôi trồng rau, nuôi lợn. Đứa lớn, sáng đi học, chiều chở giá đỗ đi bán. Vậy mà bữa đói, bữa no”.

35 năm lùi xa, nhưng những nỗi đau vẫn dai dẳng ở lại. Vợ liệt sĩ Lý Văn Nhân, bà Đinh Thị Thóa, là một trong số đó.

Chồng mất, gánh nặng dồn lên vai người phụ nữ, nên bà không thể cáng đáng nuôi nổi 4 đứa con ăn học đến nơi đến chốn. Đứa con trai duy nhất, bị mất trí, khi lên cơn hay đánh đập bà. Nó còn bán hết cả đồ đạc, giường tủ trong nhà. Còn cô út, năm 1997 bị lừa bán sang Trung Quốc, đến giờ vẫn bặt tin.

Mặc dù tay bị liệt, đi phải chống gậy, bà Thóa vẫn một mực đòi anh Cao Văn Đang, con rể đưa đến nghĩa trang để thắp một nén nhang lên ngôi mộ mới được sửa sang của chồng. Anh Đang cho hay, do buồn chuyện chồng con, nên sức khỏe bà suy sụp như vậy.

Ông Hoàng Quốc Bình cho biết: “Căn nhà xây từ những năm 1963 đến giờ, mưa nắng vẫn lo dột vào nhà. Chúng tôi cũng đã hỗ trợ, tạo mọi điều kiện nhưng gia đình bà Đinh Thị Thóa cũng chưa có một mái nhà thực sự êm ấm. Trách nhiệm của chúng tôi, trách nhiệm của địa phương và những người còn sống là để bà không còn chịu cảnh vất vả”. 

Biên cương nơi anh ngã xuống – Kỳ 3: Những kỹ sư cầm súng nơi Tĩnh Túc 2
Bà Đinh Thị Thóa, chống gậy thắp hương cho chồng

Biên cương nơi anh ngã xuống – Kỳ 3: Những kỹ sư cầm súng nơi Tĩnh Túc 3
Tay bị liệt, nên bà Thóa rất khó khăn khi chắp tay vái chồng

Biên cương nơi anh ngã xuống – Kỳ 3: Những kỹ sư cầm súng nơi Tĩnh Túc 4
Bà Thóa nhất định đòi con rể (trái) dẫn đến đây để thắp nén nhang mừng "nhà mới" của người chồng liệt sĩ - Ảnh: T.Hằng 

Biên cương nơi anh ngã xuống – Kỳ 3: Những kỹ sư cầm súng nơi Tĩnh Túc 5
Ông Hoàng Quốc Bình, lặng lẽ trò chuyện với những người đồng đội

 

Thay mặt những người thân, đồng đội đã nằm xuống ở Tĩnh Túc, ông Bình cảm ơn Báo Thanh Niên, các nhà tài trợ đã giúp "nhà mới" cho các liệt sĩ chống Trung Quốc. Ông Bình bày tỏ:  “Việc tu sửa, nâng cấp lại nghĩa trang là sự khởi đầu. Về phần mình, tôi hy vọng sẽ cùng với địa phương làm tốt công tác chính sách xã hội, nhất là đối với các gia đình liệt sĩ. Đây cũng là cách tri ân tốt nhất của những người còn sống với các liệt sĩ nằm xuống.

Thu Hằng

Theo TNO

____________________________
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
Bullet  
 

Quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối

Quá trình thụ đắc lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa được Việt Nam thực hiện bằng phương thức chiếm hữu thực sự, hoàn toàn hợp pháp. Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh hòa bình vì quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối này.
CUỘC CHIẾN PHÁP LÝ TẠI BIỂN ĐÔNG: Bảo vệ trật tự dựa trên quy tắc tại Biển Đông - Thách thức đầy rẫy và 'mỏ neo' quý giá (Kỳ 1)
Vấn đề xác lập, bảo vệ các quyền hợp pháp của quốc gia trong Biển Đông (phần 3)
Cẩn thận yêu sách chủ quyền lịch sử- bẫy pháp lý Trung Quốc ở Biển Đông (phần 2)
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài cuối: Việt Nam thể hiện vai trò chủ động và trách nhiệm

Tháng 8/2021, trong bài phát biểu tại phiên thảo luận mở cấp cao trực tuyến của Hội đồng Bảo an LHQ với chủ đề “Tăng cường an ninh biển: Một lĩnh vực hợp tác quốc tế”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đưa ra 3 đề xuất nhằm thống nhất hành động toàn cầu để ứng phó kịp thời và hiệu quả với các thách thức an ninh biển, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định trên biển, trên cơ sở tăng cường hợp tác quốc tế, củng cố lòng tin, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 3: Tạo dựng lòng tin để thúc đẩy COC
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 2: Nền móng thiết lập trật tự quốc tế mới trên biển
Xây dựng những vùng biển hòa bình - Bài 1: Cột mốc quan trọng của luật pháp quốc tế
Sách tranh cho các bé: 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'

Hành trình phiêu lưu kỳ thú của chú cún Phong Ba ở đảo Trường Sa đã thu hút nhiều bạn nhỏ và cả ba mẹ đến theo dõi trong buổi ra mắt quyển sách tranh thiếu nhi 'Trường Sa! Biển ấy là của mình'.
Từ thác Bản Giốc, ải Nam Quan... đến Hoàng Sa, Trường Sa
Giải B Sách Quốc gia: Sách quý về quần đảo Trường Sa
"Bức họa Trường Sa"
 

 

Dự án thông tin về Biển Đông của Vietnam Bussines Consulting
Email: vnsea@mail.ru
Ghi rõ nguồn www.vnsea.net khi phát hành lại thông tin từ website này
Информационный портал VBC об Южно-Китайском море.
Copyright © 2012 Vnsea. Все права защищены.