Việt Nam bảo vệ chủ quyền bằng hành động hòa bình
Cuối năm 1987, Trung Quốc ngang ngược đưa tàu chiến hoạt động ở vùng biển Trường Sa, thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Bắt đầu từ tháng 1 cho đến tháng 2 năm 1988, hải quân Trung Quốc đã điều động một lực lượng lớn tàu chiến tiến hành xâm chiếm 4 bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa là Chữ Thập (31-1), đá Châu Viên (18-2), đá Ga Ven (26-2), đá Tư Nghĩa (tức Huy Gơ, ngày 28-2).
Trước hành động xâm lược trắng trợn của nhà cầm quyền Bắc Kinh, Bộ Quốc phòng Việt Nam chỉ đạo Bộ Tư lệnh Hải quân tăng cường khả năng bảo vệ quần đảo Trường Sa, bao gồm việc củng cố, xây dựng thêm các hạng mục công trình chiến đấu, sinh hoạt cho bộ đội. Chiến dịch này được chúng ta đặt mật danh là CQ-88 (Chủ quyền 88).
Hải quân Việt Nam được lệnh đưa lực lượng, phương tiện ra các đảo đá Tiên Nữ (26-1), Đá Lát (5-2), Đá Lớn (6-2), Đá Đông (18-2), đá Tốc Tan (27-2), đá Núi Le (2-3), bước đầu ngăn chặn được hành động mở rộng phạm vi chiếm đóng của hải quân Trung Quốc.
Phía Việt Nam dự kiến Trung Quốc có thể chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và phía đông kinh tuyến 115 độ, đặc biệt là các bãi đá Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao, có vị trí chiến lược quan trọng, nằm gần cụm đảo Sinh Tồn.
Trước tình hình đó, ngày 31 tháng 3, Tư lệnh Hải quân Việt Nam lệnh cho vùng 4, Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 146, các hải đội 131, 132, 134 của Lữ đoàn 172 chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Đồng thời lệnh cho Vùng 1, Vùng 3 và Lữ đoàn 125 ở Hải Phòng chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường.
Bộ tư lệnh Hải quân điều động 41 tàu thuyền và phương tiện nổi của Lữ đoàn 125, Cục Kinh tế, Vùng 1,3,5, Trường Sĩ quan Hải quân Việt Nam (nay là Học viện Hải quân Việt Nam), nhà máy Ba Son... đến phối thuộc khi cần thiết.
|
Tàu vận tải của Việt Nam bị pháo trên tàu chiến Trung Quốc bắn
|
Tuy nhiên, những tàu thuyền trên hầu hết đều đã cũ, hỏa lực yếu khả năng tác chiến xa bờ kém. Hơn nữa, để phòng âm mưu khiêu khích của Trung Quốc là ta tấn công tàu của chúng, hải quân ta chủ trương sử dụng các tàu vận tải và lực lượng công binh ra xây dựng công trình.
Sau Tết Nguyên đán, các chiến sĩ Trung đoàn công binh 83 của Quân chủng Hải quân nhận lệnh từ Sơn Trà (Đà Nẵng) vào Cam Ranh (Khánh Hòa) cùng với lực lượng bảo vệ đảo của Lữ đoàn 146 của Vùng 4 Hải quân ra Trường Sa cắm mốc chủ quyền và xây dựng đảo chìm ở Trường Sa.
20h ngày 11-3-1988, tàu 604 của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ nhổ neo từ Cam Ranh chở theo công binh của Trung đoàn 83 và lực lượng giữ đảo của lữ đoàn 146 ra xây dựng cụm đảo Gạc Ma, Cô Lin (thuộc cụm đảo Sinh Tồn) - cách đất liền khoảng 500 km.
Đảo chìm Gạc Ma lúc đó chỉ là những bãi san hô nằm giữa biển khơi và nổi lên theo con nước thủy triều.
Ngày 12 tháng 3, tàu HQ-605 thuộc Lữ 125 do thuyền trưởng Lê Lệnh Sơn chỉ huy được lệnh từ đá Đông đến đóng giữ đá Len Đao trước 6 giờ ngày 14 tháng 3. Sau 29 tiếng hành quân, tàu 605 đến Len Đao lúc 5 giờ ngày 14 tháng 3 và cắm cờ Việt Nam trên đá san hô này.
Ngoài ra, tàu HQ-505 của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ đang làm nhiệm vụ trực tại Trường Sa được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc Ma, Cô Lin.
Phối hợp với hai tàu 505 và 604 có hai phân đội công binh (70 người) thuộc trung đoàn công binh 83, bốn tổ chiến đấu (22 người) của Lữ đoàn 146 do Lữ đoàn phó Trần Đức Thông chỉ huy và bốn chiến sĩ đo đạc của Đoàn đo đạc và biên vẽ bản đồ (thuộc Bộ Tổng tham mưu).